Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Tâm đức và ứng xử

(Tiếp theo)
Trong Bút ký Hồng Mai có một số bài thơ có giá trị đặc biệt.
   Bài thơ Đinh Liệt ca ngợi Lê Lai, biết ơn ông. Bốn người đầu tiên kết nghĩa tại một vườn đào: Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận. Sau đấy là hội thề Lũng Nhai 22 người. Các cuộc lễ ấy, Lê Lai đều được đứng bên Lê Lợi. Khi Lê Lợi bị bao vây, Lê Lai đã giả làm Lê Lợi, xưng vương, đem 500 lính, giết hàng ngàn tên giặc. Lê Lai hy sinh giữa trận tiền.  Lê Lợi được thoát:


Kỷ Tín tằng tái hiện
Lê Lai nguyện thế thiên
Tử trung hoàn sinh địa
Đại Nam sử vĩnh truyền
Niệm hà thời sinh hoả
Tứ nhân đệ nhất kiên
Tự Lũng Nhai minh thệ
Niệm nhị khỏa đào viên
Xưng vương tiết Nguyên đán
Tướng bài trụ thủ thiên
Hà nhật thành sự nghiệp
Ảm hà tất tư nguyên.
Dịch:

Kỷ Tín lại xuất hiện

Lê Lai nguyện thay trời
i
Trong chết tìm cõi sống

Sử Nam sáng đời đời
Nhớ hồi nào nhen lửa
Kiên dũng nhất bốn người
Từ Lũng Nhai thề nguyện
Vườn đào hai hai cây
Xưng vương, Tết ấy, Lê Lai
Bên vua, đứng cạnh lễ đài uy phong
Mai ngày nghiệp lớn thành công
Hỡi ai, được uống nước sông, nhớ nguồn
.
   1* Đinh Liệt và bài thơ đầu tiên về hồ Hoàn Kiếm
Hoàn Kiếm hồ, bài thơ của Đinh Liệt cũng nhiều người nhớ. Xưa, hồ Hoàn Kiếm ở gần thôn Tả Vọng, người ta gọi là hồ Tả Vọng, lại trông màu nước xanh lục, có thời gọi là hồ Lục Thuỷ. Tên: hồ Hoàn Kiếm (hồ Gươm) có từ thời Lê. Tương truyền, Nguyễn Thận làm nghề chài lưới trên một khúc sông vùng Lam Sơn,  một đêm thấy có hào quang hình rùa từ đáy sông chiếu lên, bèn quăng chài xuống, khi kéo lên được một lưỡi kiếm thần, trên kiếm có khắc hai chữ Thuận Thiên. Ông đã dâng Lê Lợi. Từ đó, kiếm này gọi là kiếm Thuận Thiên (Sau, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế cũng lấy niên hiệu là Thuận Thiên). Một hai ngày sau, người nhà Lê Lợi lại thấy ở trong vườn có chiếc ấn báu khắc tên họ Lê Lợi; và dưới một gốc đa có cái chuôi kiếm. Lê Lợi cho lắp lưỡi kiếm vào chuôi, thấy khớp. Đó là điềm trời ban ấn kiếm, giáng mệnh thiên tử. Sau đại thắng, Lê Thái Tổ phải lo trăm nghìn công việc, trong đó có việc giảm binh, hướng vào nông tang, tinh giảm mười vạn quân. Đúng vào ngày rằm tháng Tám, sau khi tế lễ trời đất, vua tôi lên thuyền “biểu dương lực lượng” trên hồ Tả Vọng. Lúc ấy, bỗng mưa to sấm chớp, rùa vàng bơi lên. Linh cảm, biết là rùa đòi kiếm, vua bèn trả. Lập tức, mưa tạnh, trời xanh chim lượn, thuyền rồng và thuyền các quan lại đua bơi, trăm họ vui ca. Rùa vàng lại xuất hiện với vẻ hân hoan mừng nước non đại định. Trong Ngọc phả, Đinh Liệt có ghi thêm một chi tiết rất thú vị: Vua đã trả kiếm, ít lâu sau, có một vị tướng xin cho chăng lưới bắt rùa để lấy lại kiếm thần, nhưng Lê Lợi gạt đi...
  Chứng kiến cảnh tượng ấy, Đinh Liệt có bài thơ Hoàn Kiếm hồ:
Nguyễn Thận hiến thần kiếm
Vương gia phương kiếm bính
Chân thiên thiện an bài
Thập nhị thiên đại định
Hoàng đế phụng thiên mệnh
Bách tính đắc an cư
Triều đình tân thiết lập
Nông tang khởi phong thu
Bang giao chính khai triển
Hồi ức lạp tuyên từ
Hồi ức Lam Sơn vãn
Thiên hạ trương thái hoà
Tinh giảm binh thập vạn
Quân thần ngoạn Tả Vọng
Thuận Thiên hoàn kiếm thời
Không trung khai lôi vũ
Biếm nhân nhật trùng lai
Kim quy quẫn du vịnh
Thanh thiên điểu tường phi
Quần thần hoan tuyển tiếu
Bách tính hô vạn tuế
Hạnh phúc thái bình ca
Ngoạn du thi nhất thủ
Ân trạch nhuận vạn gia.
   
 Dịch thơ: 
               
               HỒ HOÀN KIẾM
Nguyễn Thận dâng kiếm thần
Vương gia được cán cầm
Chân thiện, trời sắp đặt
Đại định mười hai năm
Hoàng đế vâng mệnh lớn
Trăm họ được an vui
Thiết lập triều đình mới
Lúa dâu tốt bời bời
Đường bang giao khai triển
Ngẫm đúng  như lời nguyền
Nghĩ Lam Sơn ước vọng
Thiên hạ mừng bình yên
Tinh giảm mười vạn binh
Vua tôi vui Tả vọng
Lúc trả kiếm Thuận Thiên
Bỗng mưa òa sấm động
Mây qua mau, quang tạnh
Rùa vàng bơi gần xa
Trời xanh, chim nghiêng lượn
Quần thần cười khuây khoa
Trăm họ hô vạn tuế
Hạnh phúc thái bình ca
Thơ một bài, ghi lại
Ân trạch thấm muôn nhà.
                       (D.P dịch).                                 
. Cuối bài thơ, có ghi: viết vào ngày 15 tháng 8 năm Mậu Thân 1428, có nghĩa là viết ngay trong không khí trả kiếm. Ai đã đọc bài này một lần thì khó quên, bởi đó là bài thơ đầu tiên về hồ Hoàn Kiếm, lưu lạc gần hai trăm năm, nay mới được biết.

( còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét