Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

CHUYỆN NGHIÊM CHỈNH ?

Nguồn:  Trần Nhương.com

 Kính dâng anh linh những người Việt
  từng đi khai phá đất Trung Hoa


LỜI NÓI ĐẦU


Bạn thân mến,
Bạn đang đọc những dòng dầu tiên của cuốn sách sẽ chấn động niềm tin và thức tỉnh lương tri bạn.
Cho đến nay, không chỉ bạn mà cả thế giới tin rằng, người phương Tây đem văn minh đến Trung Hoa. Tới lượt mình, người Trung Hoa mang văn minh xuống khai hòa dân An Nam mông muội. Ngôn ngữ Việt mượn 60% tiếng Hán. Văn hóa Việt là sự vay mượn văn hóa Trung Quốc chưa đến nơi đến chốn…
Đó là sự dối trá vĩ đại được áp đặt thành tín điều suốt thế kỷ qua!
Từ tri thức của thế kỷ mới, cuốn sách này sẽ nói với bạn một sự thật trái ngược. Hàng vạn năm trước, khi phần lớn nhân loại còn sống vùi trong băng giá thì từ Việt Nam, người Việt đã mang rìu đá – công cụ ưu việt của loài chúng ta thời đó – đi lên khai phá đất Trung Hoa. Rồi cũng từ Việt Nam, những lớp di dân tiếp theo mang cây lúa, cây kê, giống gà, giống chó lên xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ trên Hoa lục. Tiếng nói Trung Hoa được sinh ra từ tiếng Việt. Chữ tượng hình Giáp cốt văn Trung Hoa do người Việt sáng tạo. Kinh Thi, kinh Thư, kinh Nhạc, kinh Lễ là của người Việt. Âm Dương, Ngũ Hành, Thiên Can, Địa Chi, Bát Quái và Dịch lý… cũng là sáng tạo của người Việt. Nếu lịch sử một quốc gia là lịch sử của những cộng đồng dân cư chủ đạo làm nên quốc gia đó, thì lịch sử Trung Hoa chính là lịch sử của người Việt đã và đang sống trên đất Trung Hoa. Bạn ngỡ ngàng, bạn nghi ngờ? Không có gì lạ vì nhiều người cũng hoài nghi như bạn! Dễ gì trong chốc lát lật ngược sự thật bị khuất lấp hơn hai nghìn năm! Vâng, hai nghìn năm lầm lạc! Nguyên do là trong quá khứ, người Việt bị mất đất đai, mất chữ viết nên mất luôn lịch sử. Từ chủ nhân của nền văn minh phương Đông rực rỡ, người Việt bị tước đoạt tất cả để trở thành đám trôi sông lạc chợ, học nhờ đọc mướn!
Rất may là, sang thế kỷ này, trí tuệ nhân loại đã soi sáng quá khứ bị quên lãng, trả lại công bằng cho lịch sử. Vì lẽ đó, phải viết lại lịch sử Trung Hoa. Cuốn sách nhỏ nơi tay bạn sẽ là những dòng đầu, chương đầu của mọi cuốn sử Trung Hoa trong tương lai.
Sau cùng, tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Đức Hiệp đã vì tôi viết lời giới thiệu quý báu. Cảm ơn hai người bạn Hà Hưng Quốc và Đỗ Ngọc Thành cho phép sử dụng tài liệu rất có giá trị cho sách này.
                                                                                                  
                                                                                      Sài Gòn Xuân 2013
                                                                                          Hà Văn Thùy

                                          LỜI GIỚI THIỆU
Anh Hà Văn Thùy là người bạn mà tôi quen biết từ hơn 10 năm nay qua những bài viết trước kia của anh và của riêng tôi về lịch sử và nguồn gốc con người ở Đông Nam Á và Đông Á, dựa trên những khám phá khoa học mới về di truyền học vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Chúng tôi đã liên lạc qua điện thư và tiếp xúc trao đổi vài lần khi tôi có dịp về Việt Nam qua đó tôi được biết anh không những là nhà văn, nhà báo mà trước đó anh đã là nhà sinh học, tốt nghiệp cử nhân sinh học từ trường đại học (Hanoi University, 1963-1967)... Điều này cho tôi câu trả lời một phần về sự đam mê hăng say của anh trong các công trình nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Việt và các cư dân Đông Nam Á và Đông Á qua các chứng cứ về di truyền học.
Ở Australia trong các năm 2003-2006, tôi, anh Nguyễn Văn Tuấn và anh Cung Đình Thanh có cộng tác viết các bài về đề tài này để đăng trên tập san Tư Tưởng do anh Cung Đình Thanh sáng lập. Chúng tôi có liên lạc, trao đổi thông tin và chia sẻ các ý tưởng, đề tài nghiên cứu với anh Thùy. Sau này khi anh Thanh mất, và cũng do bản thân tôi chuyển qua các lãnh vực và đề tài nghiên cứu khác nên không còn liên lạc nhiều với anh Thùy.
Gởi email cho tôi, anh Thùy tâm sự: “Trong đêm trường dạ ngược thời gian tìm về nguồn cội, tôi vui mừng khôn xiết khi gặp nơi nhóm Tư tưởng đốm sáng dẫn đường. Tôi đã noi theo các anh với bao hy vọng. Nhưng rồi anh Thanh mất, anh và anh Tuấn “theo nghề bỏ cuộc chơi”, tôi trở nên bơ vơ…”
Có thể là bơ vơ một lúc nào đó nhưng do có hướng rồi nên anh Thùy không bỏ cuộc. Vốn là nhà sinh học tự phấn đấu thành nhà văn có hiểu biết nhất định về tiến trình lịch sử dân tộc, lại may mắn được tiếp cận tư tưởng Việt Nho của triết gia Kim Định nên khi bắt gặp những phát hiện của di truyền học, những hạt giống được gieo từ nhiều nguồn, đã bùng phát nảy nở. Chỉ trong vòng năm năm từ 2007 tới 1011, anh cho in ba cuốn sách: Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011). Ba cuốn sách cùng một đề tài, nhưng với mỗi cuốn là một sự phát hiện, là sự chín dần của tri thức và tư tưởng. Ở lời tựa cuốn thứ ba, tác giả viết: “Trong khi hào hứng phục dựng lâu đài văn hóa nguy nga, kỳ vĩ của tộc Việt, người viết chưa kịp đắp những bậc cấp khiến người chiêm ngưỡng chưa có đường lên, ngờ rằng đó là “lâu đài cất bằng hơi nước!” Vì vậy, người viết thấy cần làm cuốn sách khác, một tuyển tập những công trình nghiên cứu tiên phong và đáng tin cậy về lĩnh vực đang quan tâm, những khảo cứu của người viết và những bài mà các tác giả có nhã ý trao đổi, để rộng đường ngôn luận.” Và anh đã làm được công việc mình đặt ra. Những công trình có giá trị đặt nền tảng cho khoa học mới, nghiên cứu nguồn gốc và sự di cư của loài người đến Việt Nam của nhóm J.Y. Chu, của Stephen Oppenheimer, của Wilhelm Solheim II … trước đó chỉ được dẫn qua thư mục tiếng Anh, nay được dịch sang tiếng Việt. Không chỉ bằng lòng với việc chuyển ngữ, tác giả, trong khả năng của mình, sau mỗi bản dịch đã đưa ra bình luận riêng về những tài liệu trên, góp phần hướng dẫn người đọc. Đúng như tác giả nói: “Với tính chất như vậy, cuốn sách này có thể là tài liệu nhập môn giúp độc giả tiếp cận phương pháp khoa học mới trong nghiên cứu thời tiền sử người Việt.”
Sau cuốn sách thứ ba, tác giả của tiểu thuyết Nguyễn Thị Lộ muốn giã từ thời tiền sử để trở lại hiện tại với cuốn tiểu thuyết đang viết... Nhưng rồi trong lúc nào đó, anh ngộ ra, tất cả những phát hiện về cội nguồn cùng văn hóa Việt chẳng đã mở ra bí mật của thế giới Trung Hoa sao? Vì vậy, vào mùa Xuân năm 2012 cuốn Viết lại lịch sử Trung Hoa được khởi thảo. Tác giả tâm sự, khi bắt tay vào viết, anh cho rằng những tư liệu mình có đã đủ cho cuốn sách. Nhưng khi những chương sách hiện ra, anh nhận thấy mình còn thiếu quá nhiều. Vì vậy, anh dừng lại và nhờ internet, mò tay tới tận cùng trí tuệ nhân loại để lôi ra những tri thức về Trung Hoa, từ Chu Khẩu Điếm, Ngưỡng Thiều, Long Sơn… tới những khám phá mới nhất nơi Động Người Tiên bên bờ sông Dương Tử đầu năm 2012, thực hành một cuộc đại kiểm kê trí tuệ nhân loại về nền văn minh lớn nhất hành tinh! Và bằng tâm trí mẫn tiệp đặc biệt, anh đã kết nối rồi giải mã, biến những tri thức đã biết của từng khoa học riêng lẻ, thăng hoa thành những nhận định mới mẻ tới ngỡ ngàng…
Một bản Viết lại lịch sử Trung Hoa của anh Thùy đang nằm trên bàn tôi với đề nghị viết lời giới thiệu. Đây là vinh dự và cũng là công việc khó khăn, nặng nề vì với cuốn sách này, không thể viết như bài điểm sách thông thường. Muốn có bài viết tương xứng, cần không it thời gian và tâm huyết.
                                                                       *
                                                                   *     *
Muốn tiếp cận cuốn sách này trước hết cần phải hiểu lịch sử hình thành của khoa học nhân văn Việt Nam. Theo một nghĩa nào đó, thì khoa học nhân văn Việt Nam mơ hồ đã xuất hiện những ý tưởng sơ khai từ xa xưa, khi con người ngưỡng vọng tổ tiên thời còn ăn lông ở lỗ, với câu chuyện quả bẩu của người Dao: “Trời sinh ra quả bầu. Sau nạn đại hồng thủy, quả bầu vỡ. Mỗi hạt bầu là một tộc người túa ra sinh sống trên mặt đất.” Tiếp đó, từ huyền thoại Trung Hoa, dân ta tìm được ông tổ Toại Nhân làm ra lửa, bà Nữ Oa đội đá vá trời, ông Phục Hy làm ra Dịch và ông Thần Nông “giáo dân nghệ ngũ cốc.” Gần hơn là Cha Rồng Lạc Long Quân cùng Mẹ Tiên Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng… Người Việt truyền ngôn: Việt Hoa đồng chủng đồng văn nên dòng đầu tiên của Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Thuở Hoàng Đế dựng muôn nước…” Những ý tưởng mang tính khoa học nhân văn sơ khai vốn bàng bạc từ xa xưa nhưng khoa học nhân văn thực sự của Việt Nam chỉ ra đời khi nhà nước bảo hộ Pháp thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội vào năm 1898.
Ở thời điểm đó, tri thức về Viễn Đông của học giả Pháp còn nghèo nàn nên nhân vật chính yếu của Viện là những nhà Hán học như L. Aurousseau, H. Maspéro… Là học giả phương Tây, mặc nhiên các vị này mang quan niệm Âu trung – Châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Vũ khí trí tuệ siêu việt của những người đi “khai hóa” là hai định đề khoa học vững chắc: văn minh nhân loại từ Lưỡng Hà truyền qua Hy-La sang châu Âu rồi từ đó qua Trung Á vào Trung Quốc, sau cùng xuống Đông Nam Á. Còn con người, từ cao nguyên Tạng chuyển dịch về phía đông nam, qua Trung Hoa tới Việt Nam. Là nhà nho, họ đương nhiên cũng là đệ tử của quan niệm Hoa tâm – Trung Quốc là trung tâm của văn minh phương Đông. Dưới mắt họ, Việt Nam cùng Đông Nam Á chỉ là vũng nước đọng của lịch sử! Vì vậy, để hiểu về xứ Annam mông muội, học giả Pháp bắt đầu từ cổ thư Trung Hoa.   
Năm 1904, trong cuốn Le Cambodge xuất bản tại Paris, viện sĩ E. Aymonier đề xuất giả thuyết: “Tổ tiên những người ngôn ngữ Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi phía nam Tây Tạng rồi di chuyển về phương nam theo hai hướng, hướng tây nam sinh ra người Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông Dương.”
Từ thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ trước, học giả L. Aurousseau khai thác thư tịch Trung Hoa, cho rằng: “Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam. Nước Sở thuộc dòng Bách Việt, lãnh thổ bao gồm hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Ðến thế kỷ thứ IX trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử, định cư ở Chiết Giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người Việt chạy về phương Nam theo bốn nhóm: Nhóm Ðông Âu hay là Việt Ðông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở Quảng Ðông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ còn lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…”
”Vậy thời ta có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là dòng dõi trực tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đã ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”(1)
Áp dụng hai thuyết trên vào lĩnh vực ngôn ngữ học, nhà ngữ học hàng đầu của Viễn Đông Bác Cổ L. Maspéro cho rằng: “Tiếng Việt vay mượn khoảng 70% từ tiếng Hán.”
Một trong những học giả danh tiếng thời đó là Georges Coedès, Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ từ thập niên 1920 đến 1950. Qua những văn bia chữ Phạn thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam, ông cho rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc.
Từ thập niên 1920, Viện Viễn Đông Bác Cổ tiến hành nhiều khai quật khảo cổ học, phát hiện văn hóa đá mới Hòa Bình. Tới thập niên 1930 tìm thấy trống đồng Đông Sơn được đúc một cách tinh xảo. Nhìn nhận việc này, nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern cho rằng Đông Nam Á là vùng đã kinh qua nhiều "làn sóng văn hóa”, và những cuộc di cư liên tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng, những cái rìu mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn phải xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Trống đồng Đông Sơn là thành quả của một làn sóng văn hóa khác, xuất phát từ người Đông Âu, những người di cư về phía Nam vào khoảng 1000 năm trước Công nguyên và đến Đông Nam Á vào khoảng 500 năm sau đó.
 Trong khi học giả hàng đầu của Đông phương học Pháp tự khuôn mình trong định kiến hẹp như vậy thì bức tranh toàn cảnh của khoa học nhân văn thế giới đa dạng hơn.
Thời đó đã tồn tại hai giả thuyết về nguồn gốc con người. Giả thuyết Phi châu (Out of Africa hypothesis.) phát biểu rằng con người hiện đại chỉ xuất hiện từ Phi châu khoảng 100.000 đến 200.000 năm trước. Trái ngược với nó là Giả thuyết Nhiều vùng (Multiregional hypothesis) lý giải rằng con người hiện đại tiến hóa trong nhiều địa bàn trên thế giới từ Homo erectus khoảng 1 đến 2 triệu năm trước.
 Tư tưởng của Thuyết Nhiều vùng kết hợp với cổ thư Trung Hoa đã chi phối các học giả Viễn Đông Bác Cổ, khiến họ có cái nhìn định kiến về Viễn Đông.
Tháng Giêng năm 1932, Hội nghị Khảo cổ học Quốc tế về Tiền sử Viễn Ðông họp tại Hà Nội xác nhận: "Văn hóa Hòa Bình là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Hòa Bình có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm." (Encyclopédia d’Archeologie). Tuy nhiên phát hiện này không được trường phái Viễn Đông Bác Cổ ủng hộ.

Sự bảo thủ như vậy không chỉ về khảo cổ mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt là ngôn ngữ học. Cho tới năm 1905, Đại tá người Pháp Frey, H, (1847-1932) từng làm việc tại Tây Phi và Đông Dương đã công bố ba cuốn sách liên quan tới ngôn ngữ Việt Nam là: 1. L'Annamite, mère des langues; communauté d'origine des races celtiques, sémitiques, soudanaises et de l'Indo-Chine, Paris, 1892, 248p. (Tiếng Việt, mẹ của các ngữ; cộng đồng có nguồn gốc của các chủng tộc Celtic, Do Thái, Sudan và Đông Dương); 2. Annamites et extréme occidentaux, recherche sur l'origine des langues, Paris Hachette, 1894, 272 p. (An Nam và Viễn Tây, nghiên cứu về nguồn gốc của ngôn ngữ) và 3. Les Egyptiens préhistoriques identifiés avec les Annamites, d'aprés les inions hiéroglyphiques Paris, Hachette, 1905, 106 p. (Người Ai Cập thời tiền sử liên hệ với An Nam qua chữ khắc tượng hình). Một vài tác giả khác cũng có cái nhìn gần gũi với Frey: tiếng Việt là mẹ các ngôn ngữ phương Đông. Tuy nhiên các học giả chủ chốt của Viễn Đông Bác Cổ phản bác đề xuất này. Đặc biệt, từ năm 1933 tới 1937, có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học Ba Lan Przilusky với viện sĩ Maspéro về nguồn gốc của ngôn ngữ Việt Nam. Trong khi Przilusky đồng ý với Frey là tiếng Việt sinh ra các ngôn ngữ phương Đông thì Maspéro cực lực phản đối, vẫn giữ quan điểm của mình: tiếng Việt vay mượn 70% từ tiếng Trung Hoa. Ở đây, kẻ chiến thắng không phải chân lý khoa học mà là vai vế của người tranh luận. Quan điểm của Przilusky bị bác bỏ. Các học giả tiên phong người Việt từ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố tới Đào Duy Anh học theo rồi truyền bá thành kiến thức chính thống trong cộng đồng người Việt.

Trong khi các yếu nhân của Viễn Đông Bác Cổ cứ theo định kiến của minh thì trên thực địa khoa học ngày càng xuất hiện nhiều tiếng nói trái chiều.

Năm 1952, tiếp nối tư tưởng của Hội nghị về Tiền sử Viễn Đông 20 năm trước, học giả Hoa Kỳ C. Sauer viết trong cuốn Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán (Agricultural Origins and Dispersals)"Ðúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Hòa Bình. Lúa nước đã được trồng cùng lúc với khoai sọ." “Tôi đã chứng minh Ðông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Ðông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật."
Năm 1965, để cứu một di chỉ sắp chìm trong hồ thủy điện, nhóm nghiên cứu của Giáo sư Solheim II được phái đến Thái Lan. Qua hiện vật tìm được ở Động Linh hồn (Spirit Cave), Chester Gorman và các cộng sự ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng khoảng 10.000 năm trước CN. Tại đây, ông phát hiện một cây rìu và dao có niên đại 7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở Trung Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế do Trung Quốc "xuất cảng" sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước Công nguyên).
Năm 1972 Chester Gorman trở lại Thái Lan. Ông tìm thấy hai động khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định cư của con người tại đây khoảng 10.000 năm trước Công nguyên đến 1.000 năm sau Công nguyên. Ông đặt tên nền kinh tế thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước đó). Năm 1966, một học trò khác của Solheim II là Donn Bayard tiến hành khai quật một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây, dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm được chôn cất cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích, Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 đến 2.000 năm trước Công nguyên (thời gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt đầu xuất hiện). Ngoài ra, Bayard còn khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu hiệu thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy kim loại và đổ khuôn. Những phát hiện tại Động Linh Hồn và nghĩa trang Non Nok Tha là một thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết từng được lưu hành và chấp nhận trước đây.
Từ những khám phá trên, vào năm 1967, Giáo sư W.G. Solheim II đã viết:
   "Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Ðông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hòa Bình (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN..."
 "Rằng Văn hóa Hòa Bình là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc Sơn."
 "Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Ðông Nam Á có những nền văn hóa tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đã được phát minh..." "Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi, mà còn đi xa hơn, nơi đây đã cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đã được truyền đến Ấn Ðộ và châu Phi. Và Ðông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Ðông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN." (2)
Người phương Tây có ngạn ngữ “Khi đại bác gầm thì họa mi im tiếng.” Tiếng nói trong cô đơn của nhà khoa học bị át đi không chỉ bởi bom đạn. Điều lạ lùng là chúng không hề gây tiếng vang nào trong giới khoa học Việt Nam.
Cũng thời gian này, dưới đạn bom, giới khảo cổ miền Bắc Việt Nam hồ hởi phát hiện thêm về nền văn hóa Đông Sơn với mục tiêu chính trị, chứng minh cho thời Hùng vương trong sử Việt.
Phát huy tư tưởng Maspéro của Viễn Đông Bác Cổ, dưới ánh đèn dầu trong lán trại sơ tán tại Đại Từ Thái Nguyên, vị giáo sư hàng đầu của ngôn ngữ học Việt Nam Nguyễn Tài Cẩn khởi thảo công trình ngữ học lớn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt! Một học giả khác, Cao Xuân Hạo, đơn thương độc mã tìm lại bản thể của ngữ pháp Việt mà theo ông đã bị các nhà Tây học xuyên tạc!
Trong bộ môn nhân chủng học, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa hàng ngày rị mọ đo lại chỉ số của hơn 70 chiếc sọ trong sưu tập sọ cổ Việt Nam, thai nghén công trình Nhân chủng học Đông Nam Á.
Vào thập niên 1980, những công trình hoài thai trong khói lửa đã ra đời.
Áp dụng quan niệm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, khoa học lịch sử Việt Nam dân chủ cộng hòa kết tội Triệu Đà xâm lược và trục xuất thời đại nhà Triệu khỏi chính sử. Từ phát hiện về văn hóa Đông Sơn, các sử gia Việt Nam chối bỏ truyền thuyết nhà nước Xích Quỷ năm 2879 TCN để khẳng định, lịch sử Việt bắt đầu cách nay 2700 năm.
Cuốn sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt ra đời. Vựợt qua người thầy Tây của mình, Giáo sư Nguyễn khám phá ra trong tiếng Việt có lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa, mặc nhiên thừa nhận, tiếng Việt còn vay mượn nhiều hơn 70% từ ngôn ngữ Mẹ Hán! Được giới học thuật trong nước và quốc tế đánh giá cao, tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trong khi đó, bằng nhiều nghiên cứu, Cao Xuân Hạo từng bước tìm lại ngữ pháp nguyên thủy của tiếng Việt đã nhiều năm bị cải biến theo văn phạm Gôloa! Và cố nhiên, ông trở thành con người khó chịu, không được ưa chuộng!
Trong công trình Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa kết luận:
“Thoạt kỳ thủy, trên lãnh thổ Việt Nam và Đông Nam Á xuất hiện hai đại chủng Mongoloid và Australoid, họ hỗn hòa với nhau cho ra bốn chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, thuộc nhóm loại hình Australoid. Vào thời Ðá Mới, cư dân Ðông Nam Á thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanésien là hai thành phần chủ yếu. Sang thời Ðồng-Sắt, trên toàn Ðông Nam Á diễn ra việc chuyển hóa mạnh từ loại hình Indonesien sang loại hình Nam Á (Mongoloid phương Nam). Thành phần Australoid thu hẹp đến tối đa trong khu vực, không hiểu là do di dân hay đồng hóa.”
Từ hôm nay nhìn lại, qua lăng kính di truyền học, ta thấy rằng, đó là phát hiện cực kỳ chính xác, có thể nói, là thành tựu cao nhất mà nền nhân chủng học “đo sọ” có được. Tuy nhiên, do hạn chế của khoa học lúc đó, khám phá của vị giáo sư cũng như câu hỏi do ông đặt ra vẫn treo đó!
Và cho tới năm 2003, Giáo sư Trần Quốc Vượng, ở ngôi “tứ trụ” của sử học Việt Nam vẫn tuyên bố trên Đài BBC tiếng Việt: “Việt Nam ủng hộ thuyết Nhiều vùng của tổ tiên loài người.”
Có thể nói, cho tới cuối thế kỷ trước, khoa học nhân văn Việt Nam, dù có những phát hiện thêm di chỉ khảo cổ học nhưng về mặt tư tưởng, chưa vượt qua những gì được hình thành từ thời Viễn Đông Bác Cổ, thậm chí còn có những thụt lùi.
                                                            *
                                                         *     *
Dấu hiệu về sự khủng hoảng của một ngành khoa học xuất hiện khi nó bất lực không trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Sự khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam là có thật nhưng nói cho cùng, nó cũng nằm trong khủng hoảng chung của khoa học nhân loại do chưa có sự bứt phá mới, giải quyết dứt điểm vấn đề cơ bản nhất là nguồn gốc người hiện đại và quá trình hình thành các tộc người trên Trái đất.
Và việc phải tới đã tới.
Đó là ngày 29 tháng 9 năm 1998, khi nhóm nghiên cứu do Giáo sư J.Y Chu đứng đầu công bố công trình nghiên cứu Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc với nội dung sau:
 1. Người hiện đại Homo sapiens được sinh ra từ Đông Phi khoảng 160.000 đến 200.000 năm trước.
 2. Người tiền sử từ châu Phi băng qua Hồng Hải, men theo bờ biển Ấn Độ dương tới Việt Nam 60.000 đến 70.000 năm trước.
 3. Tại Việt Nam, họ hòa huyết, tăng số lượng rồi 50.000 năm trước di cư ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, tới Ấn Độ. 40.000 năm trước, khí hậu phía bắc được cải thiện, họ đi lên Trung Quốc và khoảng 30.000 năm trước vượt qua eo Bering sang chinh phục châu Mỹ.

Thông tìn trên gây chấn động giới khoa học Mỹ vì nó có ý nghĩa lật đổ với thuyết Nhiều vùng và mở ra viễn cảnh to lớn cho khoa học nhân văn thế giới.
Ở Australia, chúng tôi đón nhận thông tin này như niềm vui lớn và do chuyên môn của mình, bắt tay vào cuộc nghiên cứu. Từ năm 2001 chúng tôi đã có những bài viết đầu tiên về khám phá này và trong các năm 2003 – 2006 đăng trên tạp chí Tư tưởng.
Anh Hà Văn Thùy tiếp cận công trình của nhóm J.Y. Chu vào cuối năm 2004 và từ đó có trao đổi học thuật cùng chúng tôi. Ba cuốn sách anh Thùy có được, phần quyết định là nhờ tư tưởng của những phát hiện mới mẻ này.

                                                 *
                                              *    *
Với khoảng hơn 400 trang in, Viết lại lịch sử Trung Hoa có thể giữ kỷ lục về số chữ ít mà hàm chứa lượng thông tin lớn:
1.    Cho đến nay, dù tự hào có 24 cuốn quốc sử (nhị thập tứ sử), người Trung Hoa vẫn chưa xác định được tổ tiên mình là ai. Những học giả hàng đầu của Trung Quốc đang tranh nhau hai quan điểm: phái cổ điển cho rằng, tổ tiên họ từ người Erectus Nguyên Mưu, Chu Khẩu Điếm. Phái cách tân lại nhận tổ tiên họ là người Arian từ phương Tây tới. Trong Viết lại lịch sử Trung Hoa, nhất quán với công bố từ trước, và với chứng cứ vững chắc hơn, tác giả khẳng định, người Trung Quốc là những người từ Việt Nam đi lên, trong quá trình lịch sử có hòa huyết với người Mongoloid phương Bắc, cũng từ Việt Nam tới.
2.    Một vấn đề nhạy cảm trong lịch sử Trung Hoa là nguồn gốc của nhóm Hoa Hạ. Tác giả khám phá rằng: người Hoa Hạ xuất hiện khoảng 2700 năm TCN, sau cuộc xâm lược của người Mongoloid phương Bắc vào địa bàn của người Việt chủng Mongoloid phương Nam ở nam Hoàng Hà. Tại đây, lớp con lai Mông-Việt ra đời. Nhờ được kết hợp hai dòng máu và hai văn hóa, người Hoa Hạ trở thành lớp người ưu tú, nắm giữ vai trò lãnh đạo khối dân Việt đông đảo, làm nên thời kỳ rực rỡ của Trung Hoa từ Nghiêu, Thuấn tới thời Chu. Do vinh quang của tộc Hoa Hạ nên sau này, khi giành được quyền bính, những thủ lĩnh người Việt như Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang cùng bộ phận lớn người Việt cũng nhận là Hoa Hạ.
3.    Trái ngược với niềm tin vững chãi trong giới ngữ học quốc tế theo giả thuyết của nhà ngữ học Thụy Điển Bernhard Karlgren cho rằng tiếng Trung Hoa thuộc ngữ hệ Hán Tạng, rằng tiếng Việt vay mượn 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa; với nhiều bằng chứng khó phản bác, tác giả chứng minh, tiếng Trung Hoa là tiếng Việt cổ được nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance) và không hề có cái gọi là ngôn ngữ nguyên Hán Tạng (Proto Sino-Tibetan)  
4.    Cho đến nay, ngoài huyền thoại Hoàng Đế sai Thương Hiệt chế chữ thì người Trung Hoa chưa chứng minh được ai sáng tạo chữ vuông tượng hình. Trong tác phẩm của mình, với nhiều bằng chứng khó tranh cãi, tác giả cho thấy, người Việt cổ ở phía nam Dương Tử sáng chế ra chữ tượng hình, từ những nét sơ khai tại bãi đá Sapa tới chữ Giả Hồ, Cảm Tang và cao nhất là Giáp cốt văn tại An Dương Hà Nam. Khi xâm lăng Hà Nam, nhà Ân đã học chữ của người Việt rồi phát triển lên.
5.    Phát hiện thứ năm của tác giả là xác định hai nền văn hóa trên đất Trung Hoa. Trong thời gian dài sinh sống trên đất Trung Hoa, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Với cuộc xâm lăng của Hiên Viên và sự xuất hiện nhóm Hoa Hạ, văn hóa trên đất Trung Hoa chuyển sang giai đoạn rực rỡ tới cuối đời Tây Chu. Sau đó, do nhiều biến động lịch sử, những tộc người du mục xâm nhập, đồng thời bản năng du mục trong khối Hoa Hạ trỗi dậy, đẩy Trung Hoa vào thời Chiến Quốc tàn bạo. Các đế chế Trung Hoa hình thành, ngày thêm khuếch trương bản năng du mục, tạo ra khuôn mặt của văn hóa Trung Hoa hiện đại.
6.    Trong một bài viết, tác giả yêu cầu “Trả lại công bằng cho lịch sử.” Với những trước tác của mình, tác giả không những đã trả lại công bằng cho lịch sử mà hơn nữa, tìm ra bài học quý giá từ lịch sử.
Chúng ta đều biết, khoảng 10.000 năm trước, khi Kỷ Băng hà cuối cùng chấm dứt, người phương Tây thuần hóa con cừu con dê đầu tiên, bước vào phương thức sống du mục. Nhưng từ 50-60000 năm trước đó, tại địa đàng phương Đông, người Việt đã có cuộc sống xã hội rồi sớm bước vào nông nghiệp. Chính nông nghiệp làm nên văn hóa rực rỡ của phương Đông. 400 năm trước, chủ nghĩa tư bản của văn minh du mục với thép, vi trùng và súng tiến vào hủy diệt văn hóa phương Đông và đến nay đang đe dọa hủy diệt nhân loại. Trí tuệ nhân loại đang bị khủng hoảng, chưa tìm ra lối thoát. Những bộ óc hàng đầu của phương Tây cho rằng vấn nạn của nhân loại ngày nay là do nữ quyền bị chén ép. Một sai lầm chết người! Không phải là nữ quyền mà vấn đề lớn hơn mang tầm vũ trụ: sự phá vỡ cân bằng Âm Dương của thế giới! Là con đẻ của văn minh du mục, chủ nghĩa tư bản đã đẩy thế giới vận hành theo chiều Dương cực thịnh, Âm cực suy, dẫn tới đổ vỡ. Làm sao đây cứu nguy nhân loại? Minh triết phương Đông chỉ ra: phải hướng thế giới trở lại vận hành hài hòa theo chiều tham thiên lưỡng địa của văn hóa nông nghiệp Việt tộc, tức dành cho Cha, cho Dương 3 phần, thì cũng dành 2 phần cho Âm, cho Mẹ!

                                               *
                                            
*     *
Ở trên, tôi có nói tới cuộc khủng hoảng của khoa học nhân văn Việt Nam. Không có gì bất thường vì nó là một bộ phận của cuộc khủng hoảng chung của khoa học nhân văn thế giới, khi bằng tận lực của mọi công nghệ cùng phương pháp luận cũ, con người vẫn bất lực trong việc giải quyết vấn đề căn cơ nhất là nguồn gốc của nhân loại và sự hinh thành các dân tộc trên hành tinh. Mọi hành vi lịch sử, văn hóa đều là sản phẩm hoạt động xã hội của con người vì vậy chỉ có thể hiểu thấu đáo lịch sử văn hóa khi hiểu thấu đáo chính con người!
Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, một công nghệ mới cùng với phương pháp luận mới đã mở ra cơ hội lớn của khoa học nhân văn. Con người tìm lại chính xác tổ tiên cội nguồn không còn qua hiện vật khảo cổ hay những mẩu xương hóa thạch mà là tìm ngay trong chính dòng máu linh thiêng của mình.
Là may mắn, nhưng có lẽ đúng hơn là do duyên nghiệp, nên tuy không phải bỏ ra đồng xèng nào cho những công trình di truyền học, người Việt Nam thụ đắc khối lượng lớn kết quả nghiên cứu của nhân loại. Kỳ diệu sao, tất cả những khám phá lẫy lừng thập niên đầu thế kỷ đều chứng minh rằng, con người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam rồi lan ra toàn châu Á; rằng, người Việt Nam có đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á… Một khi Việt Nam đã là cái nôi của các dân tộc châu Á, mặc nhiên cũng là nôi của văn minh châu Á!
Bằng công trình của mình, nhà nghiên cứu Hà Văn Thuy trên thực tế, đã đặt nền móng cho khoa học nhân văn Việt Nam hiện đại và đưa khoa học nhân văn Việt Nam đứng vào hàng tiên phong của thế giới.
Nhận thấy đây là công trình có giá trị, mặc dầu có vài lý giải có thể còn chưa được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay ở trong và ngoài nước, tôi trân trọng giới thiệu công trình nghiên cứu công phu này của anh Hà Văn Thùy đến bạn đọc.
 Sydney, ngày 15/06/2013
         Ph.D. Nguyễn Đức Hiệp
         Chuyên gia Khoa học khí quyển                                                       Bộ Môi trường và Bảo tồn, New South Wales, Australia

Tài liệu tham khảo:
1. L. Aurousseau. Khảo về cỗi rễ dân An Nam. Bản dịch của Hồng Nhân Phạm Quỳnh. Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480
2. W.G. Solheime II. New light on Forgotten Past. National Geographic, Vol. 139, No. 3, tháng 3 năm 1971.)                                                             
3. J.Y. Chu et al. Genetic Relationship of Population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768)

Sách khảo cứu VIẾT LẠI LỊCH SỬ TRUNG HOA được nhà văn Hà Văn Thùy hoàn thành năm 2013., được đưa lên amazon.com, tại địa chỉ :



Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Có một nụ cười khác

 NSH: Từ hồi còn học cấp II, mình đã biết bức ảnh" Nụ cười chiến thắng".với câu nói nổi tiếng của người bị kết án  Chỉ sợ chế độ các ông không còn đến ngày đó
Ngoan cường đến thế, lạc quan đến thế là cùng!
Đó là biểu tượng của dân tộc VN,  quả không ngoa chút nào!



Sau thống nhất đất nước, chị ( tên là Võ Thị Thắng) .được giữ trọng trách cao trong cơ quan nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, uẩn khúc, một thời, người ta xì xầm, chị là người do CIA cài lại, kiểu Nguyễn Hà Phan!
Thực hư thế nào, ai biết được?
Hôm qua, đài báo loan tin, chị đã từ trần.
Xin kính cẩn nghiêng mình trước tấm gương kiên trung. Cầu mong chị thanh thản về cõi an lành
và xin trích một đoạn trong blog Đào Hiếu viết về chị
Ghi chép của Đào HiếuBlog Đào Hiếu
Tám giờ mười lăm phút sáng ngày 22/8/2014 chị Võ Thị Thắng, uỷ viên trung ương đảng CS Việt Nam, nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam đã từ trần tại TPHCM sau một thời gian dài bị bệnh nan y.

Với tư cách là “người nhà” của chị, tôi xin ghi lại đôi điều mà tôi từng được nghe chị kể cùng với những kỷ niệm nhỏ giữa tôi và chị như một sự bày tỏ lòng thương tiếc và yêu mến.

*
Trước đây tôi không từng hoạt động chung với chị vì hai người ở hai đơn vị khác nhau nhưng do sự sắp xếp ngẫu nhiên của xã hội mà sau này chúng tôi trở thành người nhà với nhau: chị làm dâu, còn tôi làm rể họ Trần.

Trong chuyến về quê chồng (Bình Định) tảo mộ, gia đình chị và tôi cùng đi trên một chiếc xe mười sáu chỗ của ngành du lịch. Suốt hai ngày đường, chúng tôi nghỉ lại nhiều nơi và đó là dịp mà chị đã kể lại những “biến cố đầy kịch tính” mà chị đã phải trải qua trong suốt thời gian làm Tổng Cục Trưởng. Những biến cố ấy có thể viết thành một cuốn sách dày, li kỳ hấp dẫn như phim hình sự Mỹ. Nhưng chị không dám viết, cũng không dám nhờ tôi viết dù tài liệu thì có rất nhiều. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó những tài liệu ấy sẽ được công bố, hoặc là cuốn sách ấy sẽ được viết ra, nhưng bây giờ thì không.

Bây giờ chỉ có ký họa.

Bây giờ chỉ vài đường nét bằng bút chì, bằng ngón tay nguệch ngoạc trên cát biển Qui Nhơn, bằng hòn than vẽ  trên bức tường cũ… phác thảo bi kịch của một người đàn bà có địa vị ngang hàng với bộ trưởng, một người từng gan lì đuổi theo địch thủ của mình với một khẩu súng rỉ sét, một nữ sinh trường Gia Long đã nghĩ ra được câu tuyên bố để đời. Rồi cuối cùng chiếc ghế Tổng Cục Trưởng mà người ta trao cho chị cũng bị đặt trên bốn trái mìn nổ chậm được làm bằng lòng đố kỵ, bằng thù oán cá nhân, bằng những mưu đồ ma quỷ.

Người con gái “anh hùng” ngày xưa chợt biến thành nhân viên CIA Mỹ với tập hồ sơ dày cộm.

Đó là những ngày cuối năm 1996. Nhiều nhân vật có tình cảm với Võ Thị Thắng trong Bộ Chính Trị đều rất bàng hoàng. Con chạch lại leo lên đẻ trên ngọn đa! Vậy mà người ta vẫn có đầy đủ những tài liệu về một con chạch như vậy!

Và nhiều kế hoạch “ám sát” đã được nghĩ đến: xông thằng vào cuộc họp quốc hội “bắt nóng”? Hay bắn tỉa? Bắn ở đâu?

Năm 1999 Tổng Cục Trưởng Võ Thị Thắng nhận được giấy mời sang Mỹ dự hội nghị về du lịch. OK. Sao không cho người bắn tỉa tại sân bay Los Angeles? Ngay khi đối tượng bước ra cổng phi trường là gởi một viên đạn vào đầu rồi đổ thừa cho CIA giết người diệt khẩu. Thật gọn nhẹ.

Kế hoạch lập tức được triển khai. Một anh chàng James Bond 007 mũi tẹt da vàng được chọn trong đám thân tín tại Mỹ để thực hiện Mission Impossible này. Và Mme Thắng không hề hay biết gì về âm mưu đó.

Mấy hôm sau chị lại nhận được một giấy mời của ngành du lịch Trung Quốc. Và, một cách ngẫu nhiên, chị đã chọn đi Trung Quốc.

Chàng James Bond ngồi ngáp ruồi ở sân bay Los Angeles.

Không giết được tên CIA Võ Thị Thắng ở Los thì sẽ bắt cóc hắn tại sân bay Nội Bài khi hắn ta trở về Việt Nam.

Một phương án mới được triển khai ngay lập tức: khi máy bay đáp xuống, xe con của Tổng Cục Du Lịch đến đón sếp thì sẽ có một xe mười sáu chỗ trờ tới, ép nó sát lề, chặn đầu. Khống chế tài xế, bắt cóc bà Tổng Cục Trưởng chạy ra khỏi phi trường, thẳng về nơi giam giữ.

Và mọi việc đã xảy ra y như kịch bản. Nhưng khi những kẻ bắt cóc mở cửa chiếc xe con của Tổng Cục Du Lịch thì chỉ nhìn thấy “bác tài” đang “há hốc mồm” vì kinh ngạc.

-Bà Thắng đâu?

-Xe khác đã đến đón rồi!

Sự thực chẳng hề có chiếc “xe khác” nào cả. Chỉ có phép lạ của phật bà Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đã làm cho chiếc va-li của Võ Thị Thắng lạc mất. Mme Thắng xuống máy bay nhưng không tìm thấy hành lý, đứng chờ ở cái vòng xoay cả tiếng đồng hồ. Tài xế chiếc xe con đến đón bấm điện thoại di động gọi nhưng tắt máy, anh ta tưởng sếp đã có người nhà đến đón nên chạy xe không về và bị những kẻ bắt cóc ép vô lề.

Mme Thắng tìm được hành lý thì đã quá trễ. Chị đành gọi một chiếc taxi.
*
VO THI THANG 01 
Kẻ thù giấu mặt ấy là ai? Chị biết, Bộ chính trị cũng biết nhưng không làm gì được.

Và bà Tổng Cục Trưởng đã nghĩ đến cái chết. Nhiều người trong Bộ chính trị không tin những hồ sơ ngụy tạo ấy nhưng cũng không “dám” bác bỏ. Chị gần như đơn độc. Chỉ trừ một người bạn giấu mặt. Một ân nhân của chị mà cho đến giờ này, khi sóng gió đã yên, khi một số tay chân của kẻ thù đã bị Bộ công an bắt, bị tòa án xét xử và khi chị đã nghỉ hưu… chị cũng không hề biết người đó là ai?

Trong những lúc lâm nguy nhất, người đó đã gọi điện cho chị, từ một trạm điện thoại công cộng, và báo cho chị hay rằng đang có một âm mưu như thế, như thế… rằng sự việc sẽ diễn ra như thế, như thế…

Nhưng đó cũng chỉ là những an ủi nhất thời. Tuy nhiều lần người ấy đã cứu chị thoát chết nhưng tại sao chị phải lâm vào tình thế ấy? Tại sao lại phải sợ hãi những kẻ đứng trong bóng tối? Tại sao kẻ trong sạch lại phải sợ bọn tội phạm? Tại sao một cán bộ cao cấp như chị lại phải sợ một thứ quyền lực đen nào đấy?

Và đã có lúc chị cầm một sợi dây thòng lọng. Chị cuộn nó lại, giấu trong túi xách, đến soi mặt mình trong gương. Một đêm mất ngủ. Và khóc. Một đêm ngồi trong góc tối của căn phòng nhìn chồng nhìn con và nhìn bức ảnh nổi tiếng của mình. Bức ảnh chụp chị đứng trước tòa án, giữa hai người quân cảnh đeo kính đen. Chị nhìn cái miệng cười của mình. Nước mắt lặng lẽ lăn xuống gò má. Bởi vì giờ đây chị không “được” đứng trước một tòa án để mà cười. Chị đang đứng trước một thế lực vô hình, chị đang bị rình rập, truy sát.

Ngày xưa chị nhìn thấy kẻ thù ngay trước mặt, chị bắn nó bằng một khẩu súng rỉ sét nhưng chị ở thế chủ động, chị là thợ săn còn kẻ địch là con mồi. Bây giờ thì chị không biết kẻ thù đang đứng chỗ nào, mặt mũi nó ra sao. Bây giờ chị có một khẩu K59 mới tinh nhưng chị sẽ bắn vào đâu? Bắn vào bóng tối? Vào hư vô?

Không ai trả lời những câu hỏi ấy và điều đó làm chị tuyệt vọng.

Sẽ phải treo sợi dây thòng lọng ở đâu? Trên xà nhà? Trước cửa? Hay trên một cành cây?

Không thể chết tầm thường được. Phải biến nó thành một lời cảnh tỉnh, một cáo trạng. Có lẽ chỗ tốt nhất là Hội trường Văn phòng Trung ương Đảng.

Chị quyết định vào đó để chọn một vị trí thích hợp.

Thính phòng im phăng phắc. Sân khấu mờ ảo. Những dãy ghế quen thuộc cũng đang lặng thinh, nín thở, chờ xem người đàn bà quen mặt này sẽ làm gì. Chị bước lên sân khấu, ngước nhìn những phông màn, những giàn đèn và những sợi dây kéo. Chị đi một vòng, chậm rãi, thầm lặng. Rồi chị bước xuống những bậc cấp, tìm đến chiếc ghế mà chị vẫn thường ngồi trong các phiên họp Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Chiếc ghế ôm chị vào lòng nó, cũng mềm mại, ấm áp như ngày nào. Chị ngửa cổ, tựa đầu vào lưng ghế. Và khóc.

Dường như chị có thiếp đi được một lúc cho đến khi chuông điện thoại reo. Chị mở túi xách, Chiếc điện thoại màu bordeaux đang sáng lên giữa những cuộn dây thòng lọng.

Đó là cuộc gọi của người vô danh, ân nhân giấu mặt của chị. Chị nhận ra giọng nói quen thuộc. Nó ấm áp và chậm rãi. Những lần trước, chị đã cố nghĩ xem đó là giọng của ai nhưng không biết được. Chị chỉ biết chắc người đó đã gọi cho chị theo lệnh của một đồng chí nào đó trong Bộ Chính Trị. Lần này giọng nói ấy chỉ là một câu đơn giản.

-Bộ công an đã bắt hết chúng rồi. Chúc mừng đồng chí.

Chị lặng người đi. Hội trường như sáng lên. Chị thọc tay vào túi xách, nắm chặt sợi dây thòng lọng.

Chị thấm nước mắt bằng chiếc khăn rằn của du kích Miền Nam mà chị đã chuẩn bị sẵn. Chị nhìn thẳng lên sân khấu và cười. Tiếc thay anh nhà báo người Nhật năm nào đã không có mặt để ghi lại nụ cười ấy. Nó vẫn đẹp. Và nếu được công bố với đầy đủ những tình huống đắng cay thì nụ cười trong buổi sáng cuối năm 2000 ở Hội trường này cũng sẽ trở thành một huyền thoại, và có khi còn nổi tiếng hơn cả nụ cười của mấy mươi năm về trước.

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

KÍNH NỂ !

Ngô Nhân Dụng - Giới thiệu "ÐÈN CÙ, Số Phận Việt Nam Dưới Chế Ðộ Cộng Sản" của TRẦN ÐĨNH (Tự truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh)

Thứ Năm, ngày 07 tháng 8 năm 2014


Quý vị phải lắng yên nghe bài Đèn Cù. Tự mình hát lên, hát cho thấm thía vào lòng, cho những câu dân ca văng vẳng trong đầu trong khi đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh. Khen ai khéo vẽ (ối a) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh… Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh nó chạy tít mù. Đèn Cù, cũng gọi là đèn kéo quân, là một trong số đèn Trung Thu, đồ chơi cho trẻ em và cho cả người lớn. Quý vị sẽ dần dần nhìn thấy hoạt cảnh xã hội Việt Nam những hình nhân voi giấy, ngựa giấy tít mù nó chạy vòng quanh trên màn ảnh đèn cù trong hơn nửa thế kỷ. Trong đó có Trần Đĩnh. Một nhân chứng, một người tham dự trong đám Voi giấy (ối a) ngựa giấy lần lần hồi tưởng lại những cảnh cùng nhau chạy vòng quanh (ối a) tít mù. Nhiều tác giả đã viết về xã hội miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản, dưới dạng hồi ký, tiểu thuyết, biện thuyết và lý luận, vân vân. Đèn Cù nổi bật lên trong tủ sách đó. Nếu không phải là kho chứng liệu quan trọng và đầy đủ nhất thì đây là cuốn sách đọc lý thú nhất. Rất nhiều chuyện mới nghe lần đầu. Rất nhiều chuyện cũ được nhìn dưới con mắt khác, thấy những khía cạnh chưa ai từng thấy. Quý vị sẽ cười, sẽ khóc, sẽ thắc mắc, sẽ dằn vặt, thao thức, kinh tởm, giận dữ, sót thương, khi bị cuốn theo nhữngVoi giấy (ối a) ngựa giấy chạy quanh trong cái đèn cù.

Dưới cái tựa Đèn Cù, Trần Đĩnh gọi cuốn sách này là “truyện tôi.” Đọc xong thì hiểu tại sao tác giả không gọi nó là một “hồi ký” hay “tự truyện,” những loại văn quen thuộc khi người ta kể chuyện cuộc đời mình đã sống. Cuốn sách không viết theo phong cách hồi ký hay tự truyện, khi người viết có sẵn một bản đồ để viết theo, một mục tiêu muốn đạt tới. Đây cũng không phải là tiểu thuyết, tác giả không kể những chuyện mình tưởng tượng ra. “Truyện tôi” là một thể loại văn suôi mới, do Trần Đĩnh tạo ra. Mai mốt có thể sẽ không còn ai viết “truyện tôi” nữa. Mà có ai viết thì chăc chắn cũng không viết giống như Trần Đĩnh. Đèn Cù là một cuốn sách độc đáo.

Trần Ðĩnh, 1998, Trần Ðộ chụp - (hình: tác giả cung cấp)
Trần Đĩnh vốn là một thi sĩ, loại người thích sáng tạo ngôn ngữ, bầy đặt, đùa rỡn, vui chơi với ngôn ngữ. Đẽo gọt, mài rũa, “như thiết như tha, như trác như ma,” rùng mình sảng khoái hay quằn quại đau khổ với ngôn ngữ. Trước khi gia nhập tòa soạn báo Sự Thật, ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1949, tuổi 19, ông đã viết báo rồi. Nhưng cuốn sách này tuyệt nhiên không dùng lối văn viết báo. Nhà báo không ai mở đầu một bài bằng mấy chữ: “Viết này vất vả,” rồi chấm câu. “Lười là rõ,” lại chấm câu. Cái khí văn đó tràn suốt tác phẩm. Có thể gọi đó là Khí văn Trần Đĩnh. Cũng như chúng ta có thể nhận ra Khí văn Phùng Quán, Khí văn Thanh Tâm Tuyền, vân vân, các thi sĩ có lúc viết văn suôi. Nó riêng biệt, văn đó đúng là người, mỗi người một vẻ.

Nhưng Trần Đĩnh vẫn giữ nguyên cái đức của người viết báo, là kể sự thật, kể những chuyện thật. Ông dùng một lối viết mà đọc tới đâu người ta cũng cảm thấy ngay: Đây là những chuyện thật, sự thật được bày ra, sự thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như gỗ mộc không sơn phết. Những suy tư, thao thức của tác giả được trình bày riêng, bên ngoài các sự kiện. Người viết không thêm thắt tình cảm, suy tư, phê phán, như thêm mắm muối, tiêu, hành, vào cho món ăn thêm mùi vị. Như khi ông thuật lời nhà báo Tiêu Lang đã chứng kiến cảnh mấy anh du kích đặt cái xác bà Nguyễn Thị Năm vào áo quan, áo quan nhỏ quá không vừa. Mấy anh bèn đứng lên trên xác bà đẩy cho lọt xuống. “Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ.” Hay khi ông kể chuyện về họa sĩ Phan Kế An, một trong bốn năm người cùng phụ trách báo Sự Thật lúc đầu. “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái Z. tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy Z. đến nữa. Chắc ‘máy’ cụ yếu, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, ‘gu’ của cụ.” Trần Đĩnh cũng nhớ trong lớp học “chuẩn bị cải cách ruộng đất” tháng Bảy năm 1953, “Cụ Hồ đến giảng cách nhật, có lúc cụ đùa hô lên trong hội trường Hồ Chí Minh Muốn Nằm!” “Rồi tay chỉ vào đầu [nói]: Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.”

Trần Đĩnh kể chuyện vợ nhà thơ Lê Đạt, ông bị đưa đi lao động “cải tạo” vì tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Người đàn bà mang tội là “vợ Nhân Văn”... bị “cơ quan, tập thể liên tục ép bỏ chồng” nhưng bà không bỏ…” [N]hững đêm giá buốt Thúy diễn kịch ở Hải Phòng, Đạt từ chỗ lao động cải tạo xuống tìm vợ. Không có giấy chứng minh nhân dân, Đạt không thuê được nhà trọ, hai đứa ngồi ghế vườn hoa suốt đêm nghe còi tàu thủy hú thi với gió biển.” Một câu văn ngắn cho chúng ta sống cả một đêm dài nghe tiếng tầu thủy vang vọng trong tiếng gió hú. Tác giả đóng vai một nhân chứng, một người quan sát, chỉ thuật lại những gì mình nghe, mình thấy. Thời sau chiến tranh, báo Nhân Dân có cuộc họp năm sáu chục người “ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ. Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những chiến công giả người ta gán cho Mẹ Suốt, Trần Thị Lý sông Lấp Quảng Bình. Sông đã lấp thành tên [tên Sông Lấp] mà nhà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái… Hầu hết nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã chứng kiến người bên kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người mặt lạnh tanh.” Thêm một chuyện ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản đã nổi tiếng đóng góp nhiều vàng cùng với nhà cửa trong “Tuần Lễ Vàng” thời trước kháng chiến. Sau chiến tranh bà Lợi Quyền vẫn còn một ngôi nhà tại Hà Nội. Đầu thập niên 1980 “được ban Tuyên Huấn Trung ương đến hỏi. Chê đắt [không mua]. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền.” Tác giả ghi thêm: “Tố Hữu [phó thủ tướng đổi tiền], nguyên trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ tuyệt hảo...” Và ông nhắc lại bài Quốc Tế Ca hát rằng: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Phê: “Quá giỏi!”
Ở văn phòng mới dọn đến của Tổng bí thư mùa thu 1949. Hàng đầu toàn ngồi xổm, từ trái qua, vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh. Ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, áo blu dông Mỹ trắng. Hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường, thư ký tòa soạn báo - (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Đèn Cù đầy rẫy những “đoạn phim” ngắn như vậy. Rất nhiều “clip” chợt hiện trên màn ảnh trong nửa phút, rồi chuyển ngay sang cảnh khác, liên tiếp chạy nhanh qua não bộ. Đoạn phim lưu đọng trong óc mình mãi mãi, trộn lẫn cùng những đoạn phim ngắn khác, không theo thứ tự thời gian, cũng không theo một dòng lý luận nào. Tất cả cho người đọc một toàn cảnh sống động về xã hội nước Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ, trước và sau khi tác giả đặt bút viết cuốn sách để đời này. Tất cả là “truyện tôi.” Nếu không có cái tôi sống, tôi quan sát, tôi rung động, tôi ghi nhớ, tôi suy nghĩ, thì không có “truyện tôi.” Trong trí não con người đời sống vốn không có trật tự, nó chợt hiện, chợt tắt, ngổn ngang, chắp nối, không xếp đặt theo không gian cũng không theo dòng thời gian đơn tuyến và trực tuyến. Đời sống thật vẫn như vậy. Đó là cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh. Cho nên Đèn Cù là một tác phẩm nghệ thuật. Đây là một sáng tác văn nghệ. Thử tưởng tượng có một người trước khi đọc không hề biết gì về bối cảnh lịch sử ở nước Việt Nam, chưa bao giờ nghe tên những nhân vật như Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, Lê Đức Thọ, Hồng Linh, Thép Mới, Lê Trọng Nghĩa, Hồ Chí Minh, Lê Đạt, Tô Hoài, Hồng Hà, vân vân; khi đọc Đèn Cù người đó cứ nghĩ đây là những nhân vật hoàn toàn do tác giả bịa ra. Độc giả nghĩ Trần Đĩnh sáng tác một cuốn truyện, sẽ thấy Đèn Cù là một thể loại tiểu thuyết mới, rất mới.

Tại tòa soạn báo Sự Thật: (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ (sau này tự tử ở bệnh viện Nam Ninh, Trung Quốc)-(hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Suốt cuộc đời cầm bút (ông mới tập dùng máy vi tính khi đã về già), Trần Đĩnh nói, “Tôi vẫn mong rồi có một quyển sách thật sự của tôi, của chính tôi.” Bởi vì, gần suốt cuộc đời viết, lách “tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết vào chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng đã không viết nổi. Đứa thủ phạm là tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của Thù Hằn và Dối Trá...”

Trần Đĩnh biết rất nhiều chuyện. Trần Đĩnh coi Trường Chinh là thầy trong nghề báo, được ông tổng biên tập báo Sự Thật (Trường Chinh) dậy từng chữ khi anh nhà văn 19 tuổi mới vào trong A Tê Ka (An Toàn Khu), năm 1949. Anh ngủ chung lều với Lê Quang Đạo, nhiều lần phải hất tay Lê Quang Đạo ra, và nghe lời xin lỗi, “Chúng tớ ở tù lâu ngày sinh hư.” Anh ngồi sau lưng Hồ Chí Minh trong buổi lễ truy điệu Stalin chết; nhìn cảnh Tố Hữu diễn vai đau khổ ôm bức hình Stalin đặt lên ban thờ, sau nay nghĩ có lẽ ông ta khóc Stalin là khóc thật. Rồi nhìn thấy hộp thuốc lá Trung Hoa Bài do Hồ Chí Minh bỏ quên trên ghế bên cạnh, anh cầm lấy mang đến tận phòng, “Dạ, thưa bác, Bác để quên ạ!” Và nhìn thấy “Mặt cụ xưng lên, đầm đìa nước mắt, hai mắt húp lại... Cụ ngơ ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm gì...” Trong lớp chỉnh huấn chuẩn bị cải cách ruộng đất năm 1953, một hôm “Cụ Hồ nói: Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông…” Trần Đĩnh chắc là người đầu tiên tiết lộ Hồ Chí Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ râu để không ai nhận ra. Và Trường Chinh thì đeo kính đen tới dự, để rút kinh nghiệm mà rèn luyện các đội cải cách đấu tố cho đúng tiêu chuẩn thù ghét. Xưa nay nhiều người vẫn kể rằng Hồ Chí Minh không muốn giết bà Nguyễn Thị Năm, nhưng bị cố vấn Trung Cộng ép buộc nên phải giết. Trần Đĩnh đưa ra một bài báo ngắn do Hồ Chí Minh viết kết tội đích danh bà Năm đồng thời đả kích cả giai cấp địa chủ. Bài báo này, được dẫn chứng đầy đủ, dùng một bút hiệu, ký tắt, cho nên chỉ người bên trong tòa báo mới biết người viết là Hồ Chí Minh. Trần Đĩnh cũng là tác giả đầu tiên đã gặp cô Xuân (nhân vật đã được Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày) ở trên chiến khu từ năm 1953, cô là “Con nuôi Bác.” Có lúc Trần Đĩnh đã nắm tay cô Xuân, khoe đã lấy tên cô làm bút hiệu viết trên báo. Ông cũng kể chuyện đi theo Hồ Chí Minh dự mít tinh rồi “đi lượn phố, thăm trường học” ở Móng Cái, năm 1960. Hồ viết lên bảng một chữ Hán “nhân,” rồi hỏi: “Trây sấn mà chề” nghĩa là “Đây là chữ gì?” nói bằng tiếng Khách Gia, Hakka, miền Nam gọi là tiếng Hẹ; là thổ ngữ của người gốc Hoa ở địa phương này. Tác giả thắc mắc, “tại sao đến đây Cụ đi chơi phố nhiều như thế? Khéo [cụ] đã ở đây thật?” Và có lúc đi trong phố “Cụ chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi, đi bên cạnh: Ở nhà này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ. Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm gì [giữa cô đó] với Bác?” Trần Đĩnh là người đầu tiên cho biết đã nghe Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng Hẹ, và đoán rằng ông đã hoạt động cùng các đảng viên  cộng sản ở Móng Cái từ thời trước. Chưa có một tác giả hay một người nghiên cứu lịch sử nào biết đến chi tiết này. Độc giả sẽ không ngạc nhiên khi đọc những tình cảm thân mến của tác giả với nhân vật Hồ Chí Minh; vì đã sống rất gần gũi trong nhiều năm. Trong lần đi thăm khu gang thép Thái Nguyên, “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi theo. … Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật bật ở môi: ‘Người ta đái cũng theo à?’ ‘Không ạ, cháu …!’ ‘Thế đứng sát vào người ta nhòm gì?’” Rồi Trần Đĩnh kể tiếp, “Chiều ấy, khoảng bốn giờ về tới chủ tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp … bất thần chợt nhớ đến Xuân, cô con gái nuôi của Bác. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô Xuân ấy hả? Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi. … bị ô tô đè …” Trong chương chót, Trần Đĩnh nêu một nhận định chung về Hồ Chí Minh: Lòng trung của Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung với nước Việt, dân Việt vơi đi.

Người thứ hai mà Trần Đĩnh có lòng cảm mến là Trường Chinh. Năm 1962 Trường Chinh đã nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký, nhắc lại từ những ngày đi họp ở Pắc Bó năm 1941, với ý định dùng quá khứ vinh quang “phất một ngọn cờ tập hợp” phe mình. Nhưng sau đó tập hồi ký không dùng đến vì biết mình đã thua hẳn phe cánh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh rồi. Nhiều người cũng muốn nhờ, vì Trần Đĩnh nổi tiếng khi viết hồi ký giúp cho người khác. Anh kể chuyện những người tù Côn Đảo, văn sống và khích động, như chính anh đã trải qua các gian khổ đó. Cuốn Bất Khuất(viết năm 1965) kể chuyện Nguyễn Đức Thuận, một người tù Côn Đảo tranh đấu trong tù, được đưa ra ngoài Bắc. Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Hoàng Tùng chủ trương dùng câu chuyện Nguyễn Đức Thuận để tuyên truyền khích động cho người miền Bắc ủng hộ cuộc tấn công vào miền Nam. Viết Bất Khuất, cái tên do Tố Hữu đặt, Trần Đĩnh không ký tên, tiền nhuận bút cũng nhường cho Thuận. “Vì không thích nói dối.” Nhưng được những độc giả như Trần Dần khen thì vẫn thích: “Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái grammaire.” Nguyên Hồng thì bậm môi, vuốt râu nói: “Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm hồn, mày có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận hay.” Một lần năm 1960 gặp Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh): “Vũ Kỳ bảo tôi sẽ cộng tác với anh viết hồi ký về Bác ‘khi Bác hai năm mươi.’ Viết xong tiểu sử, tôi (Trần Đĩnh) gửi lên cho Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa từng trang. Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại? Bản thảo này tôi giữ.” Sau đó sách in ra, “Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ chủ tịch ra đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà” (Tố Hữu được lãnh nhuận bút 200 đồng vì có công đọc và kiểm duyệt, người viết chỉ được 400 đồng; còn “Huy Tưởng, Hoài Thanh chả [được] tẹo nào).

Trần Đĩnh cũng viết hồi ký cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm (một trong vài ba đảng viên cộng sản đầu tiên). Lê Đức Thọ cũng có lúc muốn nhờ. “Cậu viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở tù mà viết y như thằng đã ở tù… Tớ sẽ nhờ cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa rất hay.” Và Thọ hứa hẹn sẽ đem Trần Đĩnh theo phái đoàn sang Paris đàm phán. Sau Trần Đĩnh không viết, “Hú vía!” Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh nhờ viết hồi ký, đều từ chối. Trần Đĩnh làm việc gần với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam từ năm 19 tuổi, cho nên biết nhiều chuyện. Như đến nhà Sáu Thọ, ngồi ngoài sân bên cạnh cái hầm tránh bom, thì nhận ra cái hầm này sâu 10 mét, trong khi cái hầm nhà Lê Thanh Nghị (anh đã nhiều lần xuống ẩn trong hầm này), chỉ sâu có tám mét, dù cả hai đều trong Bộ Chính Trị. Gần gũi họ, cho nên mới biết cảnh trong nhà Lê Đức Thọ một ông tướng chào Sáu Thọ xong, bước ra về mà cứ thế đi giật lùi, đến nửa cái sân mới dám quay lưng rồi tiến ra cổng. Nhìn mặt, thì ra Lê Đức Anh.

Tô Hoài (phải) và Trần Ðĩnh (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Trần Đĩnh sống trong cái đèn cù đó, trong lòng không yên. Anh bắt đầu nẩy mối bất nhẫn trong lòng khi chứng kiến những tội ác trong cuộc cải cách ruộng đất. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào đảng, tin vào những động cơ tốt của các lãnh tụ. Chuyển biến tâm lý mạnh nhất phát sinh trong năm năm du học ở Bắc Kinh, sống qua thời kỳ các phong trào bước nhảy vọt, đánh hữu phái, công xã nhân dân, vân vân, từ 1955 đến 1959. Trong thư viện Đại học Bắc Kinh, một góc bày các sách cũ tiếng ngoại quốc, anh được đọc cuốn “Từ số không đến vô định” của Arthur Koestler; câu chuyện một người bị Stalin bỏ tù. Anh cũng được đọc báo Le Monde trong thư viện đại học, và biết chuyện tố cáo tội ác của Stalin trong đại hội thứ 20 đảng Cộng sản Liên xô. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất là do anh sống bên người Trung Hoa, anh trực tiếp gặp nhiều sinh viên cùng tuổi, được nghe, được thấy, để biết chế độ Mao Trạch Đông giả dối, tàn bạo và coi khinh mạng sống dân chúng như thế nào. Khi Mao Trạch Đông cho phép “trăm hoa đua nở” báo Nhân Dân (Bắc Kinh) cũng đăng những bài phê phán đích đáng, mở mắt anh du học sinh người Việt “được thấy trí thức Trung Quốc sôi sục chống đảng.” Quan sát thực tế, lại thấy “dân Trung Quốc khốn khổ vì đảng.” Cho nên, “Tôi bắt đầu ‘hư hỏng’ (nghi ngờ đảng) vì đã nhận ra chân tướng đại bịp. Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Từ đó, Trần Đĩnh chống Mao, kinh tởm Mao, sau khi về nước vẫn tiếp tục. Vì thế anh là đối thủ của đám các đồng nghiệp thần phục Mao trong báo Nhân Dân, mà anh gọi là bọn “Mao nhều.” Kiểu như Hồng Hà, người từng nghẹn ngào nói như mếu: “Tôi xin cảm ơn Mao Chủ tịch vĩ đại đã mở mắt ra cho tôi thấy Liên xô, Kroutchev là phản bội, đầu hàng, xét lại…”

Trần Đĩnh ghê sợ âm mưu lợi dụng của Mao Trạch Đông, vì nhớ mãi câu ông ta nói: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” Chủ trương này dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Mao chấp nhận chiến tranh nguyên tử. Tại Bắc Kinh, Trần Đĩnh được hai người bạn Trung Hoa làm báo tiết lộ về cuộc họp chi bộ trong Văn Nghệ Báo để nghe chỉ thị tối quan trọng. Hai anh kể, chỉ thị được ban xuống cho dân Trung Quốc thấu triệt là họ không phải sợ bom nguyên tử. “Vì dù Mỹ có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tàn hoang đi nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện ấy sẽ ương lại giống người trên trái đất này.” Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ. Cho nên Mao muốn phát động chiến tranh, “đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng.” Mao cũng muốn đứng đầu phong trào cộng sản thế giới, sau khi thần tượng Stalin bị đàn em lật đổ. Lê Duẩn ngả theo chủ trương Mao; ghét những người muốn theo Cộng sản Nga muốn chung sống hòa bình với Mỹ và giảm bớt ách độc tài trong nước. Lê Duẩn từng ca ngợi Mao Trạch Đông là “Lê Nin của thời đại ba dòng thác cách mạng châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.”

Đối nội, Duẩn tạo ra vụ án “xét lại, chống đảng;” đánh vào những người bị coi là thân Liên Xô. Lần đầu chỉ đánh giằn mặt bằng phê bình, kiểm thảo. Năm sau Chu Ân Lai sang Hà Nội phổ biến tin tức Mao đánh các đồng chí lãnh tụ trong đảng của ông ta rồi, Duẩn mở chiến dịch thứ hai, tống giam hết cả đám. Giống như đem họ ra làm vật “thế chấp” để được Mao ủng hộ. Trần Đĩnh cũng bị nghi ngờ, bị hạ tầng công tác, bị bắt giam và hỏi cung. Có lúc anh hãnh diện kéo chiếc xe hai bánh “diễu hành giữa thanh thiên bạch nhật, ở trung tâm Hà Nội, tươi tỉnh đi trình đường phố, nhận minh bạch đường hoàng mình chống đảng.” Lê Đức Thọ gọi Trần Đĩnh tới, kể tội đám xét lại cho nghe: “Vừa ở Paris về nghe an ninh nó nói cậu dính vào vụ chúng nó tớ... tiếc lắm... Tớ đã nói là tớ mến cậu vì cậu trẻ, cậu có tài...”

Đối với bên ngoài, Lê Duẩn bám sát chủ trương của Mao gây cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam. Theo Trần Đỉnh thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không muốn đánh, nhưng không chiếm được đa số nên chịu phục tùng. Khi cuộc Cách mạng Văn hóa gây lo lắng Trung Quốc sẽ loạn lớn, Lê Duẩn thấy phải đánh ngay, đánh trước khi Bắc Kinh tan vỡ không còn chỗ dựa. Cho nên mở cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau này, Lê Duẩn theo Nga, chống Trung Cộng, thì lại hết lời mạt sát từ Mao Trạch Đông tới Đặng Tiểu Bình.

Đèn Cù đưa chúng ta vào một xã hội điên đảo, “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng.”Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh…. Những đoạn phim thú vị nhất rút ra từ cuộc sống của những con người bình thường, các nhà văn, nhà báo, các cán bộ, những người qua đường.

Ở nhà Trần Đĩnh, trong khu văn công Cầu Giấy.
Từ trái sang: vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, Trần Đĩnh, Mây, con gái TĐ và Thiếu Khanh, 

con út vợ chồng Hoạt. (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Nhà báo Minh Tường từ Hà Nội, theo đoàn quân chiến thắng vào Sài Gòn. Anh tìm được đến nhà mẹ mình, bấm chuông. Bà mẹ mở cửa ra, chấp hai tay vái lạy: “Thôi, tôi xin anh, anh đi với các đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên.” Trần Đĩnh đứng với Tô Hoài trên lề đường nhìn toán tù binh Mỹ bị đưa diễn trên đường phố Hà Nội cho dân chửi rủa, ném đá. Khi người phi công cuối cùng qua trước mặt, bỗng Tô Hoài chạy ra với tay đấm vào mặt (đấm hụt). Tô Hoài giải thích, mình phải bày tỏ lập trường; nếu không có đứa nào nó báo cáo mình đứng ngoài coi trong lúc “nhân dân căm thù” thì nguy. Có ai được nghe lời Trần Độ tâm sự, sau khi đã tỉnh ngộ, viết Nhật Ký Rồng Rắn: “Này, nói thật chứ bây giờ... hễ nghe thấy cái gì là sự thật thì trong người sướng ghê lắm ấy!” Có ai được nghe một nữ nhân viên báo Nhân Dân đã về hưu bày tỏ nỗi oán hận: “Ông cha đổ bao xương máu giành được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ!” Trần Đĩnh rất gần Lê Đạt. “Một hôm Lê Đạt bảo tôi: Nhà thơ có lẽ là người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ đẻ…. Đạt nhiều lần giục tôi viết: Tiểu thuyết về mày, gia đình mày – Tôi im lặng. Biết viết là cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn – đúng ta là bí mật – trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.”

Sống hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng Cộng sản và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc quyền nói;” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, “Ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở nào còn dám sáng tạo?” Bây giờ Trần Đĩnh đã viết. Lúc đầu, ông chỉ định viết để “tố cáo tội gây nội chiến Nam Bắc là sai lầm;” trong khi viết thì đổi ra hướng “phê phán toàn diện.”

“Vâng, tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch ra.” Đó là lời Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù. Xin mời quý vị bước vào, cùng sống trong cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh (ối a) nó tít mù.

Ngô Nhân Dụng

Tháng Tám, 2014