Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2017

QUÊ NGOẠI XA MỜ SƯƠNG ( Tiếp theo)

Tóm tắt kỳ trước:
Chàng sỹ quan trẻ, yêu cô gái trong đoàn Trí Thức Trẻ Tình Nguyện cùng công tác ở đội KTQP vùng sâu Sốp Cộp. Trước ngày quyết định tiến tới hôn nhân, họ về thăm quê nội, được nghe kể về quê ngoại của bà vốn là chiến khu lừng danh thời kháng Pháp với trận đánh mưu trí, dũng cảm mà ông bà là nhân chứng, còn người cán bộ tổ chức, chỉ huy để lại niềm tin yêu…không ngờ chính là/ có lẽ là ông nội của cô gái đó quê tận dưới xuôi.

Gió ngoài lòng hồ sông Đà thỉnh thoảng thốc vào sườn núi từng cơn nghe ù ù, tưởng như Ải Lậc Cậc* thở dài làm những lùm cây thâm thẫm xa gần rì rào xào xạc, như muốn chùng chình kéo dài thời khắc chập choạng bí hiểm. Vệt ráng đỏ ối trên nền trời vàng pha nhạt loang lổ, như nét vẽ rối điểm vài đường viền tía đang lưu luyến cố nán soi mình trên sông nước, làm ánh lên một vùng hồng rực, mặc màn sương đen ngày càng đậm đặc. Con gà treo trên cây giật mình cất tiếng gáy kéc ke ke. Quen bốn bề rừng rậm, mặt trời trốn xuống núi là bóng đêm sập buông, những vì sao le lói mọc lên, tịch mịch và đơn điệu, con gà Mèo ai mới cho ông bà tôi sáng nay, chắc không phân biệt được thời gian kỳ lạ nên đã bị nhầm. Đây là thời khắc của ma quỷ đi tuần. Xưa mỗi lần ráng đỏ xăm soi thác nào, y rằng thác đó nay mai cũng một vài mạng người. Ông nội tôi trầm ngâm bảo thế.
Tôi im lặng ngắm ông và chờ nghe những điều huyền bí của mảnh đất mà tôi gọi là quê quán, nhưng không là nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ông vẫn cởi trần, phô cơ thể to bè, vâm váp như khúc gỗ tạy. Bởi làn da rám nâu hơi nhăn nheo làm nổi những đường gân to như con đỉa đui xanh mờ khi ông đưa cả hai tay lên gãi cái đầu lún phún những chân tóc bạc. Tôi đã từng nghe và đọc cả tài liệu quân sử về chuyện nhầm trời mây, sông nước vùng này mà phi công Mỹ điêu luyện thế vẫn đã đâm sầm vào núi. Lúc đó có cái ráng đỏ tai quái như này không? Dãy U Bò hùng vĩ, bên dòng sông Đà hung hãn với những cái thác mà nghe tên đã sởn gai người. Nghĩ vậy nhưng tôi không biết mở lời thế nào, sợ làm đứt quãng dòng hồi tưởng đang dần hiện trong cái đầu chuôi vồ bướng bỉnh mà khi bí điều gì ông thường đưa cả hai tay lên cào xước ngược.
Trong nhà, Ngần ngồi đấm vai và thủ thỉ hỏi bà rằng ngày xưa ông cháu (Ngần cứ mặc định thế, chắc gì) yêu bà nhiều lắm phải không? Bà tôi liền vanh vách phô:
-Ồ! ta không biết đâu. Nhưng ta thì có yêu lại nhiều đấy cháu dâu ạ! Vắng anh Nhạ mấy hôm, ta như ủ lửa trong bụng, cồn cào lắm. Tối khuya cũng không ngủ được, cứ cố nhắm mắt lại thì hình anh lại hiện ra, gần lắm, ta quàng tay ra ôm mãi. Lần nào cũng giật mình tiếc nuối rồi khóc thầm. Nhớ lắm. Nhớ mãi cái tối anh hẹn đến bảo phải về ngay căn cứ nhận lệnh. Anh ấy ngớ người, hốt hoảng run bắn lên, ú ớ không nói được gì cả khi ta vít đầu anh xuống, tai anh sát với miệng mình để nghe lời yêu ta nói thầm rồi bất ngờ cắn nhẹ vào đó. Anh nói gì đi! Sao thở mạnh thế! Trước mới nghe lời nói ấm ngọt như gió thoảng trong nắng mai từ cái miệng lúc nào cũng tươi như hoa ta đã vui rồi, lòng đã rộn ràng như hoạ mi hót ở trong rồi. Nay cái miệng xinh ấy gần quá, thơm tựa mùi mật ong rừng mùa hoa Sơn tra. Trào dâng trong ta niềm khát khao nếm thử. Anh bối rối ngượng nghịu càng làm ta rạo rực rồi bạo dạn hơn. Ta rùng mình kêu lạnh khi thân thể nóng bừng bắt anh xiết chặt, ta âu yếm nắm bàn tay bỡ ngỡ đến lóng ngóng của anh mà dẫn dắt, đưa đẩy. Đang lâng lâng dịu ngọt thì bỗng rắc.. bịch tiếng cành cây gẫy cùng lúc như tiếng rơi xuống đất của con thú ăn đêm bị xảy chân. Anh vội ấn ta nằm xuống, lăn vòng qua rồi nghểnh đầu nghiêng ngó. Trong tiếng u u muôn thủa có tiếng lào xào rích rích vọng lại. Anh thì thầm hình như ta bị theo dõi. Ta cười. Chồn sóc trao tình đấy anh, mùa động dục rồi mà rồi quàng tay lên vít đầu anh xuống bầu ngực mình cương cứng nóng râm ran. Anh vội gỡ tay và dắt ta dậy, dứt khoát dẫn ta về, dù lúc đó lòng ta như đất nương mới đốt, khát mưa vô cùng.
Tôi giật mình hoảng hốt. Trai gái thời thời xưa cũng lãng mạn vậy a, bất chấp khác lạ về sắc tộc, văn hóa, tập quán? Tình yêu tiền bối mình hồi ấy cũng có tiếng nói riêng, thầm kín mà bạo liệt, là sự tự nguyện dâng hiến không hề tính toán ư? Sao thấy bảo chỉ do người lớn sắp đặt?. Tự nhiên tôi lo sợ, thoáng xâu chuỗi các sự kiện thầm nghĩ bụng nhỡ biết đâu ông bà đã trót với nhau. Hoang mang quá. Nếu vậy thì ôi thôi tôi và Ngần chẳng cùng chung dòng giống đó ư? Trời ơi! Sao số phận chúng tôi lại trớ trêu như vậy chứ?
Tôi run thật sự, răng va nhau lập cập, hình ảnh những lần chúng tôi mê mải say đắm nhau loang loáng hiện trong đầu…
Ông nội tôi thong thả nạp thuốc vào nõ điếu ục to cỡ cổ chân tôi, ngón tay giữa nẹn mồi thuốc chặt lại rồi mới châm lửa bằng cái đóm pơ mu. Ông cứ tay điếu, tay đóm và mắt liu riu nhìn ngọn lửa cháy tịnh không chút khói đen nào bay lên, cũng không có tý tàn nào rơi xuống, như pho tượng sống. Bỗng sực nhớ ra điều gì, ông dùng ngọn lửa vẫy vẫy tôi lại rồi mới cặm cụi hút. Thú thực, tôi chúa ghét người hút thuốc lào bởi cái mùi khai của nước điếu khi lỡ tay đánh đổ; chứ còn ngồi gần để hưởng thụ khói thuốc thì có lẽ đây là lần đầu. Bởi vậy, khi ông bắt đầu rít thì tôi cũng hít một hơi dài, sẵn sàng chịu đựng. Trời ạ! Khi tai tôi bắt đầu ong ong, ngực đã tưng tức, hết cả ô xy ở buồng phổi rồi mà chưa thấy ông tôi phả khói. Hơi ông dài hơn cả sỹ quan thường trực là tôi, bái phục thật! Hút xong, ông nuốt trọn hết vị hương thơm hắc, cay nồng vào tận gan ruột, rồi mới ngửa cổ lên, khoan thai thả lên giời một bụm khói mầu trắng đục. Trời tối đen nên tôi nhìn rõ là nó đặc xoắn xuýt chán rồi mới tở dần ra, lững thững bay lên tản vào hư vô. Nhìn ông ngồi bệt, lưng và đầu dựa vách, tay chống vào miệng ống điếu, tư thế rất vững trãi, đôi mắt mơ màng, xa xăm lắm, tôi nghĩ thầm chắc hồn vía ông đã theo làn khói kia chu du ngược vào chiều không gian thứ tư đó chăng? Thời gian sao mà trôi chậm thế. Tôi hít hơi lần thứ hai, thứ ba, sẵn sàng đón nhận điều lo sợ tồi tệ nhất làm ông rất khó nói.
Ông thở ra nặng nhọc. Cứ tưởng chôn được nó đi rồi!
-Ông bảo gì ạ. Chôn cái gì hả ông?
-Đó cũng là cái ngày có ráng đỏ như máu soi mình trên thác Hin Phá lúc nhá nhem như hôm nay. Ông nội tôi như đã trở về được cái thời khắc đáng nguyền rủa cách đây tròn một hoa giáp (60 năm) rành rọt kể:  Quá trưa sau đó vài hôm, cả bản ta rụng rời nghe tin dữ tổ công tác bộ đội Nhạ bị bọn phỉ phục kích bắn chết ở bên kia sông. Ông được anh Nhạ tin tưởng cử ở lại phụ trách tổ du kích, lúc ấy đau thương lắm, phải cố giữ lấy bình tĩnh, gọi mấy trai tráng khỏe mạnh đi cướp xác. Nó đã coi mọi nhà trong bản là anh em. Nó chết phải làm ma chu toàn cho nó chứ. Có ai sợ không? Không nói rõ ra mồm, nhưng có người khẽ ấp úng. Sợ chứ! Sợ nó bắn chết chứ! Yên tâm, tôi có cách làm nó không bắn được! Nói cứng vậy thôi, chứ ông chưa nghĩ ra kế gì đâu, chỉ biết hạ lệnh mỗi người một nắm cơm ăn đường. Ý nghĩ chợt lóe lên, xuất thần như tia chớp khi Mỷ, ( bà cháu đây này) nước mắt ròng ròng chạy đến ông nài nỉ được đi cùng. Cũng lúc đó con gà Mèo ngứa cổ, gióng tiếng lên kéc ke ke. Trời giúp ta rồi. Hay anh Nhạ khôn thiêng dun dủi đó chăng? Ta nghĩ ngay đến bài học anh dạy rồi vững tin bày binh bố trận để lên đường.
- Chắc là …ông bà lại đóng vai hai cô nữ ? Tôi lễ phép dò hỏi.
-Không! Lúc đó ông nghĩ phải đóng vai vợ chồng thôi, đi chợ sông say qúa, ngủ đường, giờ mới về tới đây. Còn rượu, còn con gà này, ta nhận nhau làm anh em thôi! Thừa cơ lúc chúng ăn nhậu thì anh em bò lên cướp xác.
-Tuyệt vời! Binh pháp của ông ngang Tôn Tẫn. Tôi cao hứng vỗ tay đen đét.
Hai bà cháu cũng đã đến ngồi bên hóng câu chuyện đang vào hồi gay cấn, càng làm ông phấn chấn. Ông lại xước ngược các ngón tay trên mái đầu lún phún tóc bạc kéo tận xuống gáy, mấy lần liền vậy như để gỡ hết dung lượng nhớ đã chìm lấp suốt mấy chục năm nay. Vừa đi vừa chạy, vùng tự do thì dễ thôi. Nhưng đến bờ sông là vùng tề, (địch kiểm soát) trời chiều, đò giang không thấy cái nào, ai cũng thấm mệt, sự hăng hái ban trưa đã vợi đi nhiều lắm. Ai nấy ngồi bệt xuống đất đưa mắt nhìn ta nửa như dò xét, nửa như chờ đợi. Toàn dân núi cả, trừ ông ra, có ai dám bơi sông Đà, mới nghe nước réo, vãi cả đái rồi. Vài cái tẩu xèo xèo, tỏa mùi thơm quen thuộc, quyến rũ lan xa. Đi rừng không có thứ gì lại sức nhanh bằng nó. Ồ mà nó cũng làm người ta khôn ranh ra nhá. Đâu như chưa đủ lượt mỗi người một tảo ( 3 điếu) thì đã nghe lộp cộp tiếng giầy đinh chạy gằn, mọi người hoảng sợ tản ra, giấu vội vào gốc cây khe đá. Hiện ra một anh lính dõng mặc sắc phục, tay dắt đứa con gái nhe nhởn rảo nhanh lại. Ồ ! Páo! Chào người anh em.! Đúng là Phà (Trời)  giúp ta gặp nhau rồi. Páo là kẻ chuyên đi kiếm thuốc phiện và gái về cho bọn lính các đồn đã vài lần đổi đạn lấy thuốc phiện cho du kích ta, nếu không khẩu súng chiến lợi phẩm bữa trước chỉ còn độc mỗi một viên đã lên nòng. Anh Nhạ đang gây dựng y thành cơ sở địch vận. Hiểu nhau quá rồi mà, chẳng cần giữ ý nữa. Hắn cười khẩy. Khó gì cái thuyền độc mộc! Và nháy cái mắt tinh quái xéo vào Mỷ lúc ấy đang ủ rũ bên đường. Thằng Nhạ bị cắt mất đầu rồi, chúng nó mang đi Ít Ong lĩnh thưởng được nhiều bạc trắng lắm, lấy thây không về làm gì nữa? Chúng nó đánh bẫy đấy, gài cả lựu đạn dưới thây cơ, mới lại 3 thằng phỉ canh giữ tinh ranh như chó sói, bọn mày thoát chết sao được? Nghe nao núng quá. Hay là thôi, Xôn ??? Ta… có nên liều lĩnh thế không?
Giữa lúc mọi người đang ngóng cả vào mình, ông thấy rất khó xử, bèn đưa mắt sang Mỷ, hỏi ý đồng chí thế nào. Lúc ấy nói gì bà còn nhớ không?
-Tôi sao quên được. Lúc ấy hỏi mọi người, nếu ai trong chúng ta không may bị chết hoặc bị sa vào tay giặc mà bị đồng đội bỏ mặc, các anh nghĩ sao? Có ai còn nhớ mình đã thề gì không? Và sau phút hùng dũng đó, ta chạy lại như van tên lính dõng : Anh ơi, tìm cách giúp em đi. Mùa sau được bao nhiêu thuốc phiện em trả ơn anh hết!  Ừ đúng rồi! Ông thấy mắt nó lóe sáng như con cáo ăn đèn rồi kéo tay ông  ra chỗ khác bàn bạc. Càng sống lâu, giờ càng ngẫm ra nhiều điều ngẫu nhiên kỳ lạ. Nếu hôm đó không gặp Páo thì cơ sự sẽ ra sao, hoặc phải quay về, vì quá khó, hoặc là thương vong vì địch quá mạnh, ta lại không mang vũ khí, còn nếu có chuốc cho chúng uống rượu bỏ thuốc mê ngủ li bì đi thì biết đâu ta cũng chết vì mìn khi cướp xác. Ông lại trầm ngâm, như là sự sắp đặt của Phà mới cho ta đem được xác anh ấy về chôn cất chu đáo thế. Nhưng… nhưng ông luống cuống quơ tay tìm cái điếu. Có lẽ ông lại cần lượng nicôtin mạnh trong liều thuốc lào để giải nén nốt lượng thông tin khuất lấp lộn xộn trong bộ não già nua, hay để giữ bình tĩnh, lấy lại tinh thần đang bị xúc động mạnh. Tôi không biết nữa. Nhưng rõ ràng lần này, không khoan thai được, ông bị sặc. Điếu thuốc mất hết ngon, làm ông phải xúc miệng, chạy ra ngoài nhổ đi.  Đành phải để bà tiếp lời.
Tên Páo đốt bó đuốc cháy sáng rực. Nó thuộc thung thổ, tự tin vừa đi vừa gọi to: Anh em ơi! Người nhà lên ngủ thăm nhá! Bọn phỉ mừng rỡ nổ súng đì đoàng chào đón. Chỉ ta với anh Xôn, cả Páo với ả gái xòe là bốn người đi vào, còn thì chọn chỗ nấp. Anh Xôn trong vai thầy cúng. Dĩ nhiên ta với ả gái xòe trong vai gái đến ngủ thăm. Páo là lính dõng oai vệ dẫn đầu. Ta không hề run, bởi tự nghĩ kiểu gì cũng sẽ có cách giữ thân. Cứ uống rượu thóc ngon với thịt nai khô trước, các giai yêu nhá chị em ta nhẩn nha làm gà. Tên Páo đốt đuốc dẫn anh Xôn lên cúng ma để nó khỏi lạc về quấy nhiễu bản làng kinh hãi lắm. Ba tên phỉ sướng rên, chỉ chờ hai người quay lưng là xán đến tán tỉnh, cấu véo. Ôi! Các anh bẩn hết cả bây giờ. Để em làm nhanh còn nhắm nào. Ngoan nào người tình ơi. Ta uốn giọng lả lơi vào vai khá đạt, tay thoăn thoắt con dao xẻ thịt, thi thoảng huơ huơ lên. Cái thằng định cập kè ta thấy thế, lảng vội, chạy ra chỗ có tiếng cười hô hố xen lẫn tiếng rên mơn trớn the thé ngoài chỗ tối. Kệ. Chúng mày ăn nhau đi càng lâu càng tốt nhá, bởi nhìn ra xa thấy anh Xôn cầm đuốc cháy sáng, vừa chạy quanh vừa quay mấy vòng, hò hét đuổi tà ma. Chắc đã tháo xong lựu đạn. Đấy là tín hiệu để anh em du kích bò vào, còn bó cây xấu hổ dựng lên làm hình nộm. Ta sướng quá hét ầm lên. Ơi! mọi người ơi! Xong cả rồi. Kỉn (ăn/ uống). Kỉn đi!
Khỏi phải nói cuộc ăn uống bốc bải giữa đêm ấy vui thế nào. Bên ta đã thích, đương nhiên, còn bọn phỉ cũng sướng đã đời. Chẳng mấy chốc cái bong bóng trâu đựng rượu nằm lép xẹp. Bọn chúng lăn lóc, đứa nằm đứa ngồi, ngủ li bì sều cả dãi, bẹo không động đậy. Ngoài bờ sông vọng vào tiếng hú dài, chúng ta nháy nhau về. Anh Xôn cuỗm luôn cây súng với tất cả số đạn. Ta đã xách lên một khẩu, thấy anh Xôn xua tay đành bỏ lại, vì thấy đầu ta cũng quay quay như vừa chạy vòng tròn.
*
Chưa bao giờ thấy bãi cỏ xanh bao la mượt mà và phẳng phiu đến thế. Làn gió xuân nhẹ như hơi thở làm những ngọn cỏ dập dìu quay sang nhau tình tứ rồi khe khẽ gật đầu. Chúng đồng ý cho mình đáp xuống đấy. Hai người dang rộng đôi cánh mềm sà xuống, sợ cỏ đau, Mỷ lại thu cánh vút lên, làm anh Nhạ ngơ ngác nghiêng cánh liệng vòng chao lên theo. Đôi tình nhân mê mải bay trong bầu trời  xanh trứng sáo trong vắt. Dưới kia, dòng sông uốn lượn một đường cong tự nhiên đẹp mê hồn, giữa xanh rờn biển lá mạ non. Họ nghe thấy tiếng rì rào trò truyện của những luỹ tre xanh thẫm bên bờ đê. Đây đó vài ba con bò vàng nâu nhẩn nha gặm cỏ, có chú bê con vừa bú xong nghếch mõm lên cười. Dòng sông hiền hoà, sóng khẽ gợn lăn tăn. Ồi đẹp quá! Nước sông, nước biển giao hoà đấy. Từ thượng nguồn quê em, dòng nước mang tất cả nỗi đau khổ, bực tức, hung dữ lẫn khao khát đổ về mẹ biển. Sau thời gian được mẹ vỗ về, được chơi bời thoả thích với đại dương, những giọt nước ấy ngoan ngoãn ngược trở về. Nó có lên được trên em không? Chắc là không đâu. Thế thì trên em mãi mãi khổ à! Anh sẽ không bao giờ để em khổ đâu? Thật không? Thật mà. Anh trao tình anh cho em đi, đừng để em buồn nữa nhá. Đôi cánh mỏng nhẹ nhàng được gió dở ra, hai đứa cùng lăn êm trên thảm cỏ mịn màng hương thơm dịu, mát tận tim gan. Cỏ mật đấy. Nhạ rút một nõn đưa lên môi Mỷ, ngọt lịm. Đôi môi khao khát cuống quýt quấn vào nhau mê đắm. Đôi cánh lanh mềm cứ dở mãi ra, rải trên thảm cỏ những bông hoa rừng li ti nhiều mầu tươi thắm. Lồ lộ trắng, đen. Quyến rũ, như mời gọi. Hương thơm nức. Thèm khát quá. Không thể cưỡng lại. Nước biển đang ào ạt dâng trào, trẩy vào lòng sông những giọt nước tinh khôi…
Đoành! Đoành!. Nhạ bị bắn chết rồi. Mỷ bừng tỉnh vẫn còn nghe tiếng súng, nhưng không sao mở được mắt. Tỉnh hay mơ? Nhạ bị bắn chết trên bụng mình à? Anh cài then mình rồi, vẫn còn âm ẩm nóng đây ư? Mỷ ưỡn người, quàng tay lên người anh xiết chặt rồi lật mạnh, phắt cái ngồi lên bụng anh, mỉm cười bởi dư vị ngọt ngào còn man mác đầu môi. Thì ôi chao! Mặt Páo cười nhăn nhở. Bỗng nhớ ra tất cả, Mỷ đổ vật xuống, chết lịm đi.
Ba tiếng súng đó do Xôn bắn chỉ thiên chào vĩnh biệt người chỉ huy, người anh quý mến. Xong quay lại gốc cây, thấy chỉ còn mình Mỷ trần như nhộng và ngủ li bì, Xôn chẳng hiẻu gì cả. Mãi sau này khi hai người là vợ chồng, ông mới biết.
Bố cháu Lính ra đời như thế!
Trời ơi! Bố tôi. Trời đất quay cuồng sụp đổ.
Bố tôi là liệt sỹ, vẫn còn sống trong ký ức các cựu chiến binh sư đoàn Bông Lau với các trận đánh khét tiếng bi hùng ở “lò vôi thế kỷ” khi tôi chừng bẩy tuổi. Nghe các chú nói, nếu hôm ấy lá quân kỳ bố mang trong người được cắm trên điểm cao xxx thì bố đã được phong anh hùng. Người là con lính dõng ăn ở hai lòng ư?  Tôi đau xót nấc lên.
VĨ THANH:
Trên góc bàn thờ nhà Ngần có bài vị ông nội gắn ảnh vẽ phóng từ tấm ảnh hệt bức tặng bà tôi. Ông chụp khi học năm cuối Trường Thành Chung ( thảo nào tiếng Pháp nói như gió) thì đi kháng chiến. Nhạ là bí danh khi ông ở Chiến khu 99, chứ tên thật/ hồ sơ là Lê Văn Sách. Bùi ngùi lật giở trang nhật ký đã sậm màu thời gian và trận mạc, trong đó quê bà tôi, trận chống càn được ông ghi vắn tắt 2 dân phu chạy thoát, thu lại toàn bộ tài sản địch cướp. Diệt 1 lính Phi, thu 1 súng, răn đe 1 hàng binh ( mũi tên/ để) hoang mang, tan rã hàng ngũ địch. Tinh thần kháng chiến lên rất cao.
Ông bà tôi, cả dân bản hồi ấy nữa làm sao biết ông Nhạ thoát chết trận phỉ phục kích ở vùng tề, khi tên lính địch vận Páo khăng khăng chính mắt mình nhìn thấy thủ cấp của ông. Bây giờ mới rõ đánh xong Điện Biên, ông là cán bộ tiểu đoàn được cử về Hà Nội học văn hóa trước khi sang Liên Xô tu nghiệp. Cơn sốt ác nghiệt ẩn náu, tích tụ từ những năm tháng rừng sâu, núi thẳm đã bất chợt quật ngã ông tại gia đình khi tranh thủ về quê cưới vợ. Càng rưng rưng khi biết sự đãi ngộ thời chưa có quân hàm vận dụng có nơi còn bất cập. Ông nội Ngần chỉ được xác định là tử sĩ.
Ông nội bảo ông Páo( nội ruột tôi) tử trận khi quân ta đánh đồn Mo không lâu sau đám ma bộ đội không đầu ấy, thậm chí ông ta không hề biết rạng sáng đêm loạn lạc, uất hận gieo cho người nữ du kích lại thành hình hài để ông nội tôi hết lòng nâng niu, nuôi dậy lớn khôn thành chiến binh quả cảm.
Kính cẩn dâng các ông những nén tâm hương./. 
                                        

·        Người khổng lồ cai quản vùng đất theo quan niệm dân gian, dân tộc Thái

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

LÀM ĐÀN BÀ KHÓ LẮM

1. Chẳng cần phải giả vờ nữa, cái đầu gối giờ nhức nhối thật rồi, tưởng có bầy dòi lúc nhúc đang rấm rứt cắn trong xương, bà Cảo bặm môi, dồn sức vào mười đầu ngón tay bấm bẹo và nhay nhay mãi vẫn chả ăn thua gì.
-Sao cái của nợ ở chết mãi bên ấy cơ chứ? Bà lẩm bẩm rủa. Sự nghi hoặc mơ hồ tựa cái nhọt lớn dần trong lòng bà, giờ to rồi, nóng rồi, bức bối lắm rồi. Đứa đứt ruột đẻ nó ra thì nó bỏ mặc ruồi tha, kiến cắn lại rỗi hơi đi hầu lềnh kẻ dửng người dưng; có uất không hả cái đầu gối này? Không thèm bấu bẹo nữa mà đấm, đấm cật lực vào đôi gối củ lạc tội nghiệp chỉ da bọc xương rồi bà ti tỉ khóc. Lúc sau hơi dịu trong người thì nghe líu ríu tiếng nói cười của con gái vọng từ ngoài ngõ; bà lại bốc hoả, gạt phăng luôn bộ ấm chén cọc cạch chiếc úp, chiếc ngửa trong cái khay nhôm trên phản xuống nền nhà kêu đánh xoảng, rồi hổn hển chết mất thôi, khổ cái thân tôi, giời ơi là giời!
 Đứa con gái huơ huơ tay, nghểnh cái đầu lên, môi miệng cười cười con đây, con đây; lon xon qua miếng sân chạt rảo nhanh vào nhà, rờ rẫm qua cửa, đụng phải người bà, vội ngồi thụp xuống, xoa nắn rối rít. Đó là Xuân, con gái út bà Cảo, hồi xưa ông ép bà cố mói khi đã hết sạch bẩn mình rồi. Nó là đứa con chấy rận, mà giời nỡ bắt tội, hồi ba bốn tuổi, sau trận đậu mùa, mắt nó mờ dần đi rồi chả nhìn thấy gì nữa; từ bấy đến nay, ngót bốn chục năm.
 Bà Cảo biết tỏng, nó vừa từ đâu về nên giận ra mặt, quầy quậy vung hất tay Xuân ra, răng lại nghiến lợi trèo trẹo. Thằng bé độ 6, 7 tuổi vừa nãy dắt Xuân về thấy thế đâm hoảng lùi lùi dần ra ngõ mới dám cắm đầu chạy.
 Sao bà chả bực cơ chứ? Con gái già này có nhớn mà chẳng có khôn. Hồi gái tơ hơ hớ bà đã chẳng nơm nớp lo canh ngày, canh đêm không mày đã phải bả lũ đàn ông hau háu rình thỏ non phổng phang, trắng bễu mà ngờ nghệch rồi đấy à? Bà chả lạ cái loại khát thằng chống gậy cà cới dai như đỉa đói, ỡm ờ gạ thả giống là giỏi ấy. Ra nếp thì nó rước, nhược bằng tẻ thì nó bỏ của chạy người. Nhõn thằng giai mạn Thuận bằng vai phải lứa, mù đặc đấy nhưng cải lương, nhạc vàng hay như yểng, nỉ non rủ làm vợ chồng xẩm bám tầu hỏa sinh nhai, mày sợ con cái sau này nảy giống bố mẹ sẽ mù tịt, khổ hơn. Ừ! Vậy là đúng! Nhưng hiện giờ đám danh giá dường này, gái lành khối đứa mơ chả được. Họa là người dở mới chê sao mày cũng lắc? Hử? Hử ?…
 Nghĩ mà tiếc đứt ruột! Ông con rể hờ ( phải gọi thế mới phải phép) ấy bảo đón cả bà lên phố nữa (Không dám) cũng tiêu chả hết lương hưu đại tá tháng hơn chục triệu bạc. Con cái ông ta phương trưởng bên Úc cả, sơn hào hải vị gửi về xoành xoạch nên nước da ông càng đỏ au đồng hun và nói cười oang oang như lệnh vỡ thế. Chúng gửi tiền công cả năm cho Trung tâm tầm quất người mù để ông đến chăm sóc sức khỏe hàng ngày. Lạ, cả cơ sở chín mười tay đấm bóp đó, ông ấy chỉ thích mỗi cái Xuân nhà bà đánh cho thôi. Sướng cái sự dịu dàng, không, ông ta bảo yêu quý cử chỉ ân cần như âu yếm của con gái bà qua từng động tác, chứ không chỉ là bổn phận bán mua công sức thôi đâu. Đấy chả duyên ông Tơ bà Nguyệt xe cho thì cái gì khiến ông ấy đức cao vọng trọng hạ cố xuống làm bạn nhà mình chân đất mắt đui hử? Ông ta còn thủ thỉ, nếu cưới được hôm trước, hôm sau ông ấy sẽ làm ngay lại bìa hồng, để con Xuân nhà bà được chung quyền. Nghe vậy, biết vậy nhưng rồi làng xóm nhỏ to thì bà nở thầm từng khúc ruột. Ai đó chả mách bà rằng nhà ông ta 3 tầng lừng lững mặt phố nườm nượp người, chỉ mẹt dưa, liễn cà bày ngoài cửa, cũng tùng tiệm cho bà già chả sợ mang tiếng ăn bám ai. Ờ! Có nhẽ thế thật chứ. Bà vốn mát tay mà. Dưa, cà vàng ươm và thơm lựng chả bao giờ kháng khú. Mới nghĩ đến thế lòng già đã lâng lâng trẻ lại như trưa hè ngồi dưới bóng tre phanh yếm áo hứng gió nồm nam. Ui giời! Nói dại chứ, vài mươi năm nữa, ông ấy về già, nó còn được tý lương mà bấu víu, chứ đâu khốn khổ như đời bà! Làng xóm ai cũng mừng vun vào. Đúng giời có mắt các bá nhẩy, có phúc có phần cấm có sai. Người bạo miệng bảo cái Xuân như chuột sa chĩnh gạo, ngang trúng sổ xố độc đắc đấy. Bao giờ làm lễ Vu quy nhớ cho chúng tôi ướt mép, ướt môi với nhá.
 Bà chắc mẩm bao nhiêu thì càng đau bấy nhiêu khi con Xuân cứ một lặng, hai lặng để rồi cuối cùng buông một câu vỗ tuột mọi niềm hồ hởi của bà rơi xuống đất. Giời bắt tội ai nấy chịu, đèo bòng chi cho khổ người, khổ ta!
 Bà Cảo bực lắm. Thuyền rồng đến tận nơi đón rước, còn cành cao cành thấp thì suốt kiếp thuyền chài nhá, lọ mọ hơn cả tao chứ tưởng à? Tim vàng tim bạc đâu ra mà hão huyền chờ với chả đợi. Nhưng đấy là chỉ bực một, còn cái tội hễ sểnh ra là nó cứ men mẻn sang hứng việc cho nhà Cường trên xóm Chùa mới làm bà bực hai, bực ba cơ. Uất nghẹn đầy ứ cổ đây này, nuốt làm sao được mà cơm với chả cháo. Cháo với chả lão. Được con gái day bấm mân mê vùng vai gáy, xoa bóp chân tay bằng sự thuần thục với cả lòng ăn năn, cơn hỏa của bà Cảo từ từ hạ cùng tiếng lảm nhảm thưa dần rồi lịm hẳn. Một lúc sau từ cái miệng mở hờ bà đã thở hắt ra những tiếng khù khù nặng nhọc. Xuân hiểu và thương mẹ lắm. Bà phổi bò, bực lên thì mất mặn mất nhạt vậy chứ giận ai được lâu bao giờ đâu. Sao hôm nay đốc chứng thế chứ? Hay là mẹ biết chuyện rồi? Ý nghĩ len lỏi qua làm Xuân thoáng sững người, bất chợt ngơi tay, ruột gan bổi hổi lo. Bà Cảo tinh thật, đang phù phù đều lại rên rỉ ngay được sao ông không về dẫn tôi đi? Để tôi một mình khổ vầy ông ơi, hời… Xuân mím môi, đôi tay ráo riết miết vần để bà ư hừ khẽ dần rồi lại chìm vào giấc ngủ gà chập chờn đầy mộng mị.
2. Ông đại tá hưu là khách ruột của cơ sở tầm quất người mù vài ba năm nay, gần đây mới nghe mấy bà sồn sồn rỉ tai nhau Xuân làm sướng lắm, nhẹ nhõm lắm muốn trải nghiệm tý xem sao. Nể ông, chủ dàn xếp cho, bảo con này nó yếu ngày đánh bốn ca thôi. Xong mỗi ca, nó phải thiền nửa tiếng mới lại sức. Ác cái, các bà khách ruột thay nhau giữ rịt kín mít lịch, càng khiến ông tò mò. Đúng. Mê mẩn không tin nổi. Đôi cườm tay cô nàng vần vũ nông sâu rung động cả buồng gan lá lách làm đan điền ông hừng hực, thức ran cả vùng ủ rũ bấy lâu. Rõ là nguồn năng lượng sinh học tràn trề, tràn sang làm ông phấn chấn. Hồi tại ngũ, cậu công vụ con lão tầm quất chiếu manh ở Cửa Nam chẳng đêm nào không làm các khớp của ông kêu khùng khục. Nghỉ hưu thì được mấy cô mù dở ở cơ sở mát xa lành mạnh thành phố này, biết hoàn cảnh ông đã rất ân cần vuốt ve, âu yếm thái quá, nhưng có bao giờ ông cảm thấy trẻ ra như lúc này. Tự nhiên muốn Xuân là của riêng mình. Vua chúa xưa chẳng từng lấy âm dưỡng dương đó thôi. Ông hăm hở tìm về quê Xuân, rồi dốc hết bầu tâm sự với bà Cảo. Ông vững tin thành công, bởi mình có rất nhiều lợi thế. Chẳng ngờ Xuân an phận, không bắt nhời. Âu cũng đành, nhân duyên là nợ. Giờ ông chỉ muốn Xuân tuần đánh cho vài lần mà cũng khó. Nghe đâu, anh chàng liệt hút cạn sức nàng rồi.
*
3. Chàng liệt tên Cường, suýt soát ba mươi tuổi, vóc vâm váp, tay như khúc chão bện rám nâu, khoanh để trước lòng, nằm lặng phắc trên giường đệm bông lau vải gai thô bụi bặm. Anh ta nhìn trân trân lên trần nhà chưa trát, không biết thức hay ngủ;  bởi lúc ngáy mắt nó vẫn mở hờ thế. Ai đến hỏi thăm đều liếc vào nơi cổ anh vẫn hằn vết thâm xì như người đeo tràng hạt chật, tay nắm cái bắp tay rồi sờ cái chân khô khỏng dưới lớp vỏ chăn nhàu nhĩ mầu cháo lòng, anh ta cũng kệ, không nhúc nhích.
Xuân ngồi trên chiếc ghế nhựa áp đuôi giường, lưng quay ra cửa, tay luồn dưới chăn cần mẫn nắn từng tý cẳng chân Cường. Thực ra, chẳng ai bảo cô ngồi xoa bóp lâu thế đâu. Hôm qua nghe mẹ bảo nhà Cường vợ tót sang Đài làm ôsin chồng hận đời tự tử, Xuân thót hẫng người muốn sang đó ngay xem sao. Ừ! Phải đấy. Mình nghèo hèn chẳng giúp được gì thì cũng nên có lời an ủi, xoa dịu cái đau buốt trong gan ruột bố con nó. Chớ theo người ta bỏ lời ác như quạt gió vào lò phải tội. Mẹ hào hứng thế cơ mà …
 Có hai cô cậu nhà báo về quay hình và ghi chép. Một người rờ rờ cái vòi nhựa trắng quấn từ háng Cường dẫn ra đang rỉ nước giải xuống cái lọ để dưới gậm giường, hỏi có biết mót không, ị cũng thế à? Ác nghiệt quá! Sao bảo khoảng nửa năm cơ thể sẽ phục hồi cơ mà? Ba bốn người đứng vây quanh hùa vào. Ôi giời! bác sỹ giờ vậy cả đấy. Xiền! xiền… không thì tay đau sẽ cắt chân. Không khéo chú Cường nhà mình bị thế… Đấy! Mới bảo phải 1 tỷ sang Sing phẫu thuật lại, tháo mấy cái đinh đóng nhầm vào tuỷ ra… Chết thôi! Nghèo thì chịu chết oan thôi.
Cuối năm ngoái, Cường cùng hai thợ xây bị ngã giáo khi đang trát ngoài ngôi nhà tầng trên phố, tưởng may không bị chết tươi và máu me toé nhoè như các thợ bạn, nhưng lại là kẻ đáng thương nhất. Mấy tháng nằm các bệnh viện trung ương vẫn không cứu được mấy đốt sống lưng cuối, anh đành bất lực chứng kiến nửa dưới cơ thể héo dần đi tong teo rồi mềm oặt. Nằm ngủ lắm cũng chán, không ngủ thì nhức mỏi, muốn cũng không tự ngồi dậy được. Ăn uống, ỉa đái phải gọi. Vậy có phải là sống không? Anh ta cắn răng tự hỏi. Ngắc ngoải chẳng làm được gì, ngày nào cũng người đòi nợ nhục quá. Uất ức cái vợ bạc bẽo, bỏ con tếch đi theo thằng nào. Muốn chết quách đi. Âm thầm lập mưu, rồi anh ta kiếm đoạn dây thép buộc 1 ly chập đôi tròng quanh cổ làm thòng lọng, luồn chiếc đũa cơm qua đó làm con nín xoắn vặn thít chặt căng xong, bình tĩnh rút ra, vứt đi. Động tác buộc cốt thép quen thuộc đơn giản mà chắc đét từng kiếm cơm cho đời thợ hồ đâu ngờ lại để kết liễu chính mình. Trời xui, đất khiến đứa bạn vô tình đến chơi tồng tộc phi xe máy lao thẳng vào sân. Trông thấy mặt Cường phù to, tím tái đã hiểu ngay sự tình và thằng này giỏi biết xử lý khẩn cứu được anh cu chán đời, dại dột.
Bố Cường, ông lão gầy gò, đầu tóc muối tiêu rối bù, lập cập bưng khay nước vối đến, đôi mắt lờ đờ ẩn dưới hốc trũng sâu, chậm chạp nhìn khách và hàm răng khấp khểnh chiếc mất, chiếc còn nhô chìa ra khiến đôi má tóp quắt lại, phều phào mời. Ai cũng ái ngại, ông ngần này tuổi đầu nhẽ được ung dung. Ông nói nhỏ, bên kia giường Xuân dỏng tai lên mới nghe câu được câu chăng. Vợ nó mỏng mày, hay hạt lại nhẫn nhịn nên cu cậu càng hận đời tợn…cắn răng chịu mãi, đêm nào chẳng tấm tức sụt sịt … rồi mới xin tôi về đằng ngoại vài ngày nói là chữa bệnh(!). Tôi ừ hữ bảo con cứ lánh đi dăm bữa nửa tháng yên tâm mà chữa trị. Nhà nhiều anh chị em thay nhau mỗi đứa chăm cho vài buổi. Biết đâu nó ma lanh, lá mặt lá trái thế! Thức lâu mới biết đêm dài cụ ơi, báu gì ngữ lanh lảnh tiếng đồng, chả hại chồng cũng hại con ấy, xéo sớm đỡ chật nhà. Ấy chết nói thế phải tội. Chuyện tiền nong à, tôi biết đâu nói đấy nhá. Trước thì tích cóp được đồng nào đổ vào cả cái nhà này rồi. Mọi người quay cổ ngó khắp lượt căn nhà mái bằng một thò hai thụt đang trát dở, cửa sổ gài tạm bằng phên tre. Chúng nó định bụng cứ dấn lên rồi vợ chồng chịu khó làm trả dần. Nghe đâu mới gán ngân hàng? Ai ngờ tai hoạ giáng xuống đau xót quá. Vâng đúng! Mới thế chấp lấy tiền cứu cháu ạ. Chủ nhà họ có động thái gì quan tâm? Thôi thì oan gia trái chủ, họ phúng đứa chết bao nhiêu tôi không biết còn cho em nó nhà tôi lít máu truyền. Anh thợ cả cũng lo cho vài triệu. Anh em họ tộc nhà tôi chỉ nhiều tình cảm, chạy lên chạy xuống thăm hỏi chứ tiền thì không có mấy, ai cũng nghèo cả. Thế sao đủ được, những mấy chục cơ mà? Còn thì cái Mơ giật nóng chỗ nọ, bỏ chỗ kia cũng nhiều, tôi bắt ghi chép đầy đủ cả. Ơn cứu mạng, lậy giời đất nhà tôi đâu dám quên. Nhưng ai bảo nó vay một chục, một trăm, hay một triệu thì tôi cũng đều chỉ biết vậy. Chứ bảo bố con tôi lo trả ngay thì nói bạc lỗ mồm… Vâng đúng là bức xúc quá cháu nó phẫn chí mất khôn…
 Lòng Xuân nhói lên. Chị ơi cứu em với! Không tiền tiếp máu, chồng em chết mất! Đôi hoa tai trong hộp nỉ êm mượt được gỡ ra rừ mấy lớp giẻ rách khâu quấn kỹ…
 Sung sướng cầm những đồng tiền mồ hôi nước mắt cô tìm mua con lợn thừa vú về lê la để mẹ đỡ buồn. Vứt lăn lóc thế, ngoảnh đi ngoảnh lại nó đã chắc nịch như ông đồ rau, bán đi được món. Xuân cẩn thận gấp từng tờ tiền làm tư cuộn vào nhau trong tờ giấy bóng nhét vào cạp quần chân què thùng thình của mẹ. Mẹ còn gài 2 cái kim băng chặn 2 bên mới bỏ vào giỏ đồ linh tinh treo trên vách, phía đuôi giường. Xuân nhớ in lúc mẹ giật nảy mình như đỉa phải vôi khi đứa con gái út tật nguyền lần sờ đôi dái tai, tháo cái nút vo bằng miếng giấy bạc lót vỏ bao thuốc lá tựa như hạt đỗ, rồi thay vào đó bằng đôi hoa tai một đồng cân vàng ta, nhẵn thín và mát rợn tay. Hôm ấy dùng dằng mãi, con biếu mẹ, mẹ tặng con làm của hồi môn nghẹn ngào, mắt ai cũng ngân ngấn nước. Mấy đêm sau đang ngủ mẹ cũng giật thót người thì thào còn không hay bị lừa mất rồi. Vùng mình gần đây xảy ra nhiều vụ thôi miên lắm. Cứ mê mẩn vào mở hòm bê hết tiền, vàng ra cho người ta mới khiếp chứ.
  …Đừng nói lời lãi làm gì, cứu được người là chị vui.…
Cô vội gạt ngay dồn hết tinh lực vào đôi tay. Cường vẫn thiêm thiếp ngủ, thi thoảng giật mình, khẽ thở dài rồi lại thỉu. Xuân cảm thấy từ sâu thẳm trong lòng Cường ngọn lửa sân hận đang hừng hực. Những viên thuốc an thần cô y tá cho Cường uống chỉ làm anh ta không thấy rát buốt thôi. Lửa càng bốc lên dữ nữa vì xung quanh luôn có không khí rủa xả uất hận hun nung. Sao lành vết thương, nói chi hồi phục. Xuân không được học, không nghĩ được xa, không biết nói hay, không dám nhiều lời nhưng cô lờ mờ cảm được những gì người ta không nhìn thấy. Hình như muôn ngàn con mắt li ti ở lỗ chân lông bàn tay mỗi khi cô tập trung tinh tinh thần sờ vào đối tượng. Rõ quá rồi. Cường cần một chỗ dựa êm mềm nhưng không bị chao đảo để bình tâm lắng lại, tĩnh tại rồi mới khoẻ và vui lên. Tiếc thay chỗ quý giá ấy bị chính Cường vô tình điên lên phá nát. Chứ chưa hẳn tại Mơ bất ngãi, bất nghì bỏ đi? Bây giờ nhà chỉ hai đàn ông kẻ tàn tật, người già nua luôn nhăn nhó, quanh ra quẩn vào với thằng bé, ăn còn phải dỗ thì sao giải toả cơn hoả đang ngùn ngụt? Rồi 3 miệng ăn trông cả vào phụ cấp mất sức chỉ đủ ngày vài bữa cháo loãng? Nhưng thiếu nhất cái dịu mát, bao dung của người đàn bà. Tiếc rằng mình…cô cắn môi lưỡng lự. Nhưng tình cảnh này thôi đành lấy muối làm ngon, lấy nước làm sạch chứ biết sao giờ? Xuân mỉm cười mỉa mình, rồi quả quyết. Mai cháu sang. Mơ trả tiền cho cháu làm việc này rồi! Lúc chào về cô điềm tĩnh bảo nhỏ ông bố Cường như thế.

*
( Còn nữa )

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

ĐẾN GIÀ MỚI CHỢT TỈNH

Đôi lời: Đến già mới chợt tỉnh là Hồi ký của ông Tống Văn Công, nguyên TBT báo Lao động, mình cóp về để bạn nào chưa biết bản chính thì xem cho vui, có thể bồi bổ thêm nhưngx điều mình chưa ngộ!

GẶP BA NHÀ VĂN BỊ VÙI DẬP.

Tôi gặp nhà văn Hà Minh Tuân ngay sau khi ông bị lâm nạn năm 1962. Bạn tôi, anh Trần Dũng Tiến nguyên là cảm tử quân Hà Nội năm 1946, phụ trách công tác Tuyên truyền – Thi đua của Nhà máy gỗ Hà Nội ở Bến Chương Dương, gần bãi sông Hồng. Tôi đến nhà máy gặp anh Tiến tìm tài liệu viết báo và nhân đó xin mua gỗ vụn làm củi đun bếp. Anh Tiến cho biết, ông Hà Minh Tuân vừa bị cách chức giám đốc Nhà xuất bản Văn học, đang lao động cải tạo ở đây. Công việc của ông là khuân gỗ dưới bến sông Hồng xếp lên xe hai bánh, kéo xe về, xếp gỗ vào kho nhà máy. Lúc giải lao giữa ca, anh Tiến mời ông vào văn phòng uống nước, trò chuyện với chúng tôi. Ông hơn tôi một giáp, hoạt động cách mạng từ năm 1943, tham gia khởi nghĩa tháng Tám ở Hà Nội, rồi vào bộ đội lên đến chính ủy trung đoàn, sau tiếp quản Hà Nội được bổ nhiệm làm giám đốc đầu tiên của Nhà xuất bản Văn học. Nếu ông cứ chuyên tâm vào việc “gác cổng chính trị” như các vị giám đốc khác thì hẳn đã leo lên cấp Vụ, cấp Bộ rồi, hoặc ít nhất cũng được yên vị tới lúc hưởng lương hưu. Nhưng do có máu mê văn chương, năm 1957 ông viết quyển “Trong lòng Hà Nội”, năm 1960 ông viết “Giữa hai trận tuyến”. Cả hai tác phẩm đều được đánh giá đã “đóng góp xuất sắc cho nền văn học xã hội chủ nghĩa”. Ông hăm hở viết một tác phẩm không né tránh, không bóp méo hiện thực, từng trang nóng bỏng hơi thở cuộc sống, có tựa đề “Vào đời”, một bài học cho lớp trẻ trong giai đoạn mới. Quyển sách vừa xuất bản thì lập tức bị “ăn đòn hội chợ” của các nhà phê bình nhân danh “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Số bài phê bình tốn giấy mực hàng chục lần quyển sách 200 trang của ông. Ông phải làm bản tự kiểm điểm sai lầm vì đã viết quyển sách bôi nhọ xã hội tốt đẹp dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và ngồi nghe cấp trên và cả cấp dưới của mình xỉ vả, rồi nhận quyết định cách chức, đi lao động cải tạo vô thời hạn. Nhà thơ Xuân Sách có bốn câu thơ đúc kết cho ông về sự kiện này:
“ Bốn mươi tuổi mới Vào đời,
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ.
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ,
Trong lòng Hà Nội, bây giờ là đâu”?
Cho đến nay có nhiều bài viết về chuyện ông bị kỷ luật cách chức, đều bảo là không rõ sau đó ông làm gì ở đâu. Về tuổi tác, cấp bậc ở bộ đội, ở cơ quan và học vấn tôi thấy mình ở dưới ông rất xa. Từ khi bắt đầu cầm bút tôi chỉ chuyên tô hồng, cho nên tôi nghĩ là ông sai, nhất là Đảng đã cho rằng ông sai. Do đó, anh Trần Dũng Tiến và tôi khuyên ông nên cố gắng lao động cải tạo cho tốt để được phục hồi công tác. Nhưng ông vác gỗ mãi cho tới ngày Mỹ ném bom Hà Nội mà cấp trên cũng chẳng đoái hoài tới. Ông bỏ việc, biến mất, không ai biết “Trong lòng Hà Nội, bây giờ là đâu”? Lúc ấy bạn tôi, anh Trần Dũng Tiến chê trách Hà Minh Tuân vô Đảng sớm mà sao quá thiếu “đảng tính”! Không ngờ tới cuối đời, bạn tôi, anh Trần Dũng Tiến cùng các cựu chiến binh Hà Văn Quận, Trần Anh Kim tích cực góp ý “Đảng phải đổi mới chính trị”, đã bị đòn đau hơn Hà Minh Tuân: Ngồi tù!
Nhiều bài viết về nhà văn Hồ Dzếnh đều nói ông chỉ làm thợ hợp đồng ở Nhà máy Xe lửa Gia Lâm. Có người nói ông chỉ làm ở Nhà máy Cơ khí Hà Nội. Năm 1968 tôi đến Nhà máy cơ khí Quang Trung Hà Nội (gần Bệnh viện Bạch Mai) để viết về phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai”. Thư ký công đoàn nhà máy là ông Lâm Thành Keng (người Việt gốc Hoa Chợ Lớn, sau 30–4–1975 làm Chủ tịch công đoàn quận 5) giới thiệu với tôi có hai tổ đạt danh hiệu Tổ lao động xã hội chủ nghĩa: Tổ đúc và tổ hàn. Ông nói thêm, đặc biệt tổ đúc có một nhà văn nổi tiếng trước cách mạng là Hồ Dzếnh nay là thợ làm khuôn đúc rất giỏi. Tôi chọn viết về tổ hàn vì từng thích bài “Thợ hàn lò cao” nổi tiếng của Chính Yên miêu tả những thợ hàn tài hoa như nghệ sĩ. Tuy vậy, tôi cũng gặp tổ trưởng tổ đúc và ông Hồ Dzếnh để tìm hiểu về những người thợ làm công việc nặng nhọc nhất. Nghe tôi nói tiếng Sài Gòn ông Hồ Dzếnh vui vẻ bảo ông từng sống trong ấy và hiện nay có nhiều người ruột thịt của ông ở trong ấy. Tôi thắc mắc hỏi ông vì sao một nhà thơ, một nhà văn nổi tiếng như ông đến tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh” lại chọn cho mình cái công việc quá nặng nhọc này. Tôi có quen biết một vài nhà văn nhà thơ thời tiền chiến ở các cơ quan văn hóa văn nghệ và nghĩ nếu ông ở đó thì thích hợp và có ích cho đất nước hơn. Ban đầu ông nói úp úp mở mở, có lẽ vì e dè trước một nhà báo của chế độ. Dần dần thấy sự chân thành ngô nghê của tôi, ông cởi mở kể cho nghe những éo le oan khuất của mình không dễ gì được thông cảm. Sau khi Hà Nội nổ súng chống Pháp, số đông văn nghệ sĩ tản cư đã chuyển dần theo hướng lên Việt Bắc. Ông lại chạy ngược về Thanh Hóa quê ông, rồi xây dựng gia đình với bà Nguyễn Thị Huyền Nhân, sinh con được bốn tháng thì bà bị thổ tả qua đời. Cuộc sống quá khó khăn, con không có sữa, ông buộc phải mang con vào Sài Gòn sống nhờ người anh ruột có cửa hàng xe đạp ở đường Hiền Vương (nay là đường Võ Thị Sáu). Năm 1954, Hiệp định Geneve quy định đất nước tạm thời chia làm hai miền. Đang có cuộc sống yên ổn ở Sài Gòn, nhưng ông lại nhất quyết phải mang đứa con bốn tuổi ra miền Bắc, bởi ngoài đó mới là chế độ mà ông đã góp phần xây dựng. Ra Bắc, ông “đi bước nữa” với bà Hồng Nhật ở 26B Phố Huế. Vợ chồng ông ở cả tầng trệt có thể buôn bán kiếm sống. Sau giải phóng Hà Nội, cán bộ quản lý nhà đất cho rằng gia đình ông ít người mà chiếm khu nhà quá rộng, họ quyết định lấy tầng trệt phân phối cho cán bộ từ chiến khu về. Ông đến các cơ quan văn hóa tìm bạn cũ. Lãnh đạo văn nghệ từ Việt Bắc về coi ông là kẻ đã rời bỏ kháng chiến “dinh tê” về thành, nhìn ông “đầy cảnh giác”! Ông Trần Đĩnh kể trong cuốn Đèn Cù: “Đại hội văn nghệ năm 1961, giờ nghỉ, Tố Hữu tìm tôi lắc đầu chán ngán nói ‘chuẩn bị để Hồng Linh nhận hoa của Bác thì lại thành Hồ Dzếnh’! Tôi nói, có ai bảo Hồng Linh đâu, với lại, tôi đùa, cũng là người Hoa cả mà anh. Tố Hữu nghiêm mặt: ‘Hồng Linh kháng chiến, Hồ Dzếnh trong thành, sao lại ‘cũng’ được? Bác mà biết thì ra làm sao”? (Đèn Cù, trang 172). Để kiếm sống, ông xin ký hợp đồng với Nhà máy Xe lửa Gia Lâm làm những công việc nặng nhọc không đòi hỏi tay nghề cao và ít ai muốn làm. Sau khi tiếp quản nhà máy, cán bộ quan tâm đến lý lịch, họ xếp ông vào diện không đưa vào biên chế để được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Đến khi Mỹ ném bom miền Bắc, ông xin làm ở Nhà máy cơ khí Quang Trung để được gần nhà, tiện việc đi lại và chăm sóc vợ con.
1
Chân dung Hồ Dzếnh
Dù có thấy tiếc cho sự không may của ông, nhưng tôi không nhận thức được sự “bất cận nhân tình” của chế độ mà ông là nạn nhân. Đứng bên ngoài hệ thống chính trị, Hồ Dzếnh quan sát miền Bắc xã hội chủ nghĩa một cách tỉnh táo trong hồi ký “Quyển sách không tên” (Nhà xuất bản Thanh Văn, Hoa Kỳ). Ông nhận ra cái sai cốt lõi tác hại lâu dài của nền giáo dục: “Bây giờ quy tất cả các môn học về chính trị”. Ông cũng là người sớm nhận ra “văn học nô lệ cho chính trị”, do đó “nhà văn không khác gái điếm. Cô gái chiều khách hàng, nhà văn chiều thời đại”. Và “Tác phẩm của một cá nhân tuy được mang tên mình, nhưng phải xen vào công trình của tập thể”. Ông quan sát tình trạng của đất nước: “Lẽ sống dệt bằng khói lửa, người ta không biết gì hơn là thủ tiêu nhau để hòng thoát ngõ bí. Trong cuộc xáo trộn Bắc – Nam, có cái gì còn nguyên giá trị cố hữu đâu. Cái quý nhất là con người không còn quý nữa nếu nó không là thứ xuất phẩm được rèn đúc theo khuôn khổ của thời đại”.
Ngày 20 tháng 8 năm 1970 báo Nhân Dân đăng 5 bài thơ của Lý Phương Liên: “Ca bình minh”, “Em mơ có một phiên tòa”, “Lời ru với anh”, “Về người cha đã khuất”, “Thư gửi người bạn gái Mỹ”. Tác giả là công nhân trẻ ở nhà máy cơ khí. Báo của Đảng ca ngợi: “Một bông hoa vừa nở đã ngát hương”. Tất cả các báo đua nhau tìm xin thơ Lý Phương Liên coi như đó là giành đẳng cấp về cho tờ báo. Báo Lao Động bị chậm chân vì người phụ trách việc này là nhà thơ Thái Giang đang nghỉ phép. Do đó, tôi được giao nhiệm vụ khó khăn này: Phải xin cho được ít nhất một bài thơ của Lý Phương Liên cho số báo sắp ra. Tôi đến nhà Lý Phương Liên gặp lúc chị đang tiếp hai người khách, nhà thơ Minh Giang phụ trách phòng văn hóa văn nghệ của Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân và nhà thơ Phạm Tiến Duật mới từ chiến trường miền Nam ra. Tôi thuộc bài thơ “Gửi anh bạn Triều Tiên” của Minh Giang từ năm 1950 đến nay mới được gặp nhà thơ cho nên rất vui. Với tư cách một đàn anh từng trải, hiểu biết, nhà thơ Minh Giang nhận xét, hiện nay chúng ta có hai nhiệm vụ chiến lược, giải phóng miền Nam và xây dựng miền Bắc. Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu ở chiến trường giải phóng miền Nam. Lý Phương Liên là nhà thơ tiêu biểu của hậu phương lớn miền Bắc. Lựa lúc thích hợp, tôi ngỏ ý xin thơ đăng báo thì Lý Phương Liên cho biết, tập thơ chép tay của chị do bác Huyền Kiêu và bác Hải Như giữ. Các báo muốn đăng thơ của chị đều phải qua hai bác ấy. Mừng quá, nhà thơ Hải Như là bạn vong niên của tôi (anh hơn tôi chín tuổi). Tôi vội vã cáo từ mọi người để đi xin thơ đăng báo. Báo Lao Động đăng ba bài thơ của Lý Phương Liên có bài bình luận do tôi chấp bút. Ít lâu sau, báo Văn Nghệ đăng một trang thơ Lý Phương Liên có bài “Nghĩ về Thúy Kiều”. Dư luận sôi lên cho rằng cho tới lúc ấy, “Nghĩ về Thúy Kiều” là bài thơ hay nhất của Lý Phương Liên. Nhiều anh em báo Lao Động chê trách tôi không biết chọn thơ hay đã để sổng mất bài “Nghĩ về Thúy Kiều”. Nhưng ngay hôm sau có tin “một đồng chí lãnh đạo (nghe nói là Trường Chinh) cho rằng “Nghĩ về Thúy Kiều” ẩn chứa tư tưởng phản động! Một cây đa cây đề của làng thơ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ông Hoàng Trung Thông phê phán “Nghĩ về Thúy Kiều” là: “Rắc rối cầu kỳ trong diễn tả, yếu đuối sướt mướt trong tình cảm, bi quan tăm tối trong tư tưởng ”. Các nhà tuyên huấn Đảng cho rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại một thân phận Thúy Kiều:
“… Trái đất chúng mình cho đến hôm nay,
Vẫn còn những cuộc đời như nàng chìm nổi.
Thời gian còn nửa ngày là đêm tối.
Còn đồng tiền đổi trắng thay đen.
Còn sắc tài bạc mệnh với hờn ghen.
Còn những Mã Giám Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến.
Còn những đất đai triền miên chinh chiến…”
Trong giới văn chương, nhiều người không đồng ý với những nhận xét áp đặt của tuyên huấn, nhưng như giáo sư Trần văn Giàu viết trên báo Văn Nghệ ngày 19– 9– 1987 về tình trạng phê bình trong chế độ xã hội chủ nghĩa: “Lắm khi để nhận xét độc đoán không cho phép cãi lại”.
Hơn 40 năm sau, nhiều bạn đọc vẫn nhớ và có lời khuyến khích, Lý Phương Liên đưa in tập thơ của thời tuổi trẻ, mang tên “Ca Bình Minh”, tên của một trong năm bài thơ in trên báo Nhân Dân lần đầu tiên. Chị thổ lộ: “Tôi nín lặng suốt 40 năm nay vì lời nguyền bỏ thơ của chính tôi. Mọi hệ lụy xô đẩy chúng tôi đến bần hàn, cơ cực, không liên quan đến ai. Tôi không thán oán. Người chịu nhiều cay đắng vì thơ tôi là chồng tôi.” Bạn đọc dễ dàng cảm nhận vị đắng cay trong những lời “tôi không thán oán” của chị.

NHÀ VĂN SƠN NAM,
CỘNG TÁC VIÊN ĐẦU TIÊN.

Báo Lao Động Mới chuẩn bị xuất bản số đầu tiên đúng dịp kỷ niệm Cách Mạng Tháng Tám. Anh Sơn Tùng (nguyên Tổng thư ký báo Đại Dân tộc của anh Võ Long Triều), thư ký tòa soạn’ mời nhà văn Sơn Nam viết bài về ngày lịch sử này. Nghe giới thiệu tôi là tổng biên tập, anh ôm chầm lấy khen, “trẻ quá, giỏi lắm”. Tôi nói, trẻ gì nữa anh, bốn mươi ba tuổi rồi! Tôi khoe, đã biết anh từ khi anh là Phạm Anh Tài. Anh ngạc nhiên hỏi tôi thời chống Pháp ở đâu, làm gì. Khi biết tôi công tác ở Trạm 23, anh nói mình có qua trạm đó. Tôi lại khoe, đã viết cho báo Nhân Dân Miền Nam và đã dự buổi lễ công bố giải nhất cho cuốn “Bên rừng Cù lao Dung” của anh. Anh nói, họ có mời nhưng mình không đi, gần một tuần sau mới biết truyện được giải.
Anh không mang theo tài liệu, cây bút cũng không có. Anh hỏi tôi cho anh một chỗ ngồi, cây bút bi và vài tờ giấy trắng. Đến 11 giờ 30 tôi mời anh nghỉ, ăn bữa “cơm tập thể” với anh em ký giả, rồi viết tiếp. Anh nói, cho mình chậm năm phút cho xong bài.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, vì bài viết của anh ghi rõ nhiều tên người, nhiều đơn vị, những ngày tháng nối tiếp cho đến khi khởi nghĩa. Một trí nhớ phi thường! Sau bài kỷ niệm “Cách mạng Tháng Tám”, chúng tôi còn đặt anh viết những dịp kỷ niệm ngày Nam Bộ kháng chiến, Nam kỳ khởi nghĩa, Toàn quốc kháng chiến… Anh cũng đến tòa báo với tay không như thế. Anh nổi tiếng với “Hương rừng Cà Mau”, “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, “Văn minh miệt vườn”, “Cá tính miền Nam”… Anh được xem là một nhà Nam Bộ học.
Có lần tôi hỏi anh đánh giá thế nào về tiểu thuyết “Hòn Đất” của Bùi Đức Ái (Anh Đức). Nhà văn Anh Đức thời chống Pháp chưa có tên tuổi gì. Anh nói, nó thuộc loại truyện minh họa cho chánh trị thôi, bố cục không chặt, nhiều chi tiết khó tin. Tôi kể với anh, quyển này được Tố Hữu gọi là “Hòn Ngọc” của văn học Việt Nam. Anh cười, nếu Tống Văn Công bảo một nhà phê bình văn nghệ nào đó nhận xét như vậy thì mình ngạc nhiên, chớ còn ý kiến của một ông chính trị thì khỏi bình luận.
Ngẫm nghĩ một chút, anh lại hỏi, Công nè, ngoài Bắc sao không thấy các nhà phê bình văn nghệ nhận xét tác phẩm mà chỉ thấy mấy ông chính trị chê thế này, phán thế kia. Quyển sách, bài thơ bị Tố Hữu, Trường Chinh chê thì tác giả của nó cũng coi như bị nghỉ chơi. Cả xã hội phải im re, không ai dám bào chữa. Tôi bảo anh, tình trạng đó đã có từ thời bưng biền Nam Bộ kháng chiến, do anh không bao giờ đi họp cho nên không nghe đó thôi. Tôi nhắc lại chuyện các ông Hà Huy Giáp, Lưu Quý Kỳ chê bài nhạc “Tiểu đoàn 307” lai Tây không cho giải mà chọn bài Tự túc cho giải nhất. Họ chê truyện Kén rể của Ngũ Yến không có lập trường giai cấp và họ khen truyện thơ “Chú Hai Neo” của Nguyễn Hải Trừng theo thể lục bát, nôm na, chất văn học còn kém xa “Lục Vân Tiên”.
Hồi đó, anh ở Gò Vấp quá xa trung tâm thành phố. Tôi luôn bận nhiều việc rồi sau đó ngồi ở Hà Nội nhiều hơn Sài Gòn, nên không tới thăm anh.
Một lần tại cơ quan miền Nam báo Lao Động, hai anh em gặp nhau sau nhiều năm, cùng ngồi uống trà, bù khú chuyện đời. Anh bảo, mình nói điều này Tống Văn Công đừng đưa lên báo nha, có hứa vậy không để mình nói? Tôi cười, anh Sơn Nam mà cũng biết sợ à? Anh đáp, sao không sợ? Lớn cỡ Nguyễn Tuân còn sợ thì Sơn Nam nhằm nhò gì! Tôi xin hứa, rồi im lặng chờ đợi. Anh hạ giọng gần như thì thầm: “Bao giờ văn nghệ còn chịu sự lãnh đạo của Đảng thì chẳng có tác phẩm nào ra hồn đâu”! Tôi cười lớn bảo, lẽ ra anh không nên dặn tôi đừng đưa lên báo mà dõng dạc yêu cầu: “Tớ có ý kiến này, Tống Văn Công ghi cho chính xác rồi đăng ngay lên báo cho mọi người đọc”! Anh ngẩn người một chút, rồi cười hăng hắc, vậy ra Tống Văn Công cũng nhát như Sơn Nam à?

Thứ Năm, 7 tháng 7, 2016

QUÊ NGOẠI XA MỜ SƯƠNG

Lâu quá rồi, chẳng viết được gì.
Cặm cụi mãi mới cuốc được từng này. Mời ai quan tâm đọc cho vui ạ! Ảnh minh họa lấy trên mạng của nhà thơ trẻ Hoàng Anh Tuấn
Bà nội bảo đường vào bản của bà hồi ấy bé như dải võng mảnh vắt ngoằn ngoèo qua núi đồi thâm u rậm rạp. Cắt ngang chỗ lõm nhất ấy là dòng suối Nưa mải miết đêm ngày, len lỏi chảy qua những hòn cuội gồ lưng lên kêu róc rách. Cây cối la đà, xanh um che khuất những hõm nước lặng, lạnh ngắt đây đó hoắm sâu vào vách đá bí hiểm. Trong số hang đó có nơi trú chân của phân đội vũ trang tuyên truyền 99. Đi dưới lòng suối chẳng mấy khi nhìn thấy mặt ông giời, chỉ toàn sương mù mờ ẩm ướt, chim muông ríu ran hót kêu, chạy nhảy.
-99! Nghe quen quen. Nơi 100 ông thoát ly thì 99 ông hai vợ đúng không ạ?
-Bậy quá! Ông nội ngừng tay vót nan chép miệng. Thôi để bà kể tiếp đã đi.
-Xế trưa hôm ấy, nhận tin cấp báo, ta đi ngay ra suối Nưa, chỗ âu nước mạn trên thác, xanh trong ngằn ngặt. Nhìn xuống dưới qua làn bọt nước tung lên trắng xoá chỉ thấy vài ba bà già trần lưng ngồi nghỉ trên bờ bên các cù lở lăn lóc chất đầy rau quả. Đã bắc loa tay định gọi thì một thằng giai bất ngờ nhô người nhoài lên hòn đá sát nơi ta đứng. Ta giật thót mình rồi bật cười ngặt nghẽo. Giống quá. Hai quả bòng non phơi khô xuôn dây buộc vào ngực nẩy tưng tưng dưới làn áo cóm trắng dấp dính ướt như muốn bật hàng khuy bướm bạc. Anh Nhạ! Ta reo lên khe khẽ. Anh cao, mỏng mình, da trắng như gái bản; đặc biệt nhất là hai bên khoé miệng lúc nào cũng tươi còn có lúm đồng tiền nữa. Có lẽ cái miệng biết nói giỏi nên bộ đội chủ lực phái anh sang làm bộ đội du kích. Mấy anh ở lẫn cùng dân bản, dạy người ta cất giấu lương thực, đặt bẫy rào bản hay chạy trốn lên rừng sâu để không bị bắt lính, đi phu. Bảo họ cùng nhau nhất quyết không đưa vợ con về làm con chó canh quanh đồn giặc. Đại loại thế, mí lại dạy bắn súng cho du kích các bản nữa. Dạy suông với súng thôi, hứa khi nào gặp địch càn thì cho bắn đạn thật, mục tiêu thật một thể, làm ta mong nhiều lắm. Vừa vấn khăn trên mớ tóc giả, anh bảo nay chị em ta làm con chim mồi đấy. Rồi hạ giọng dặn thế thế, ta giẫy nẩy lên, nhỡ nó làm thật thì chết tao à?
 Bỗng có tiếng cú ám hiệu rúc lên, lát sau tiếng giầy lộp cộp khua xuống dốc, tiếng xì xồ ngày một rõ. Dưới thác mấy bà già nháo nhác lủi vào mép suối, trốn vào rừng. Anh Nhạ đợi nhìn rõ bọn chúng lội suối mới khoác cù lở lên vai, dắt tay ta chạy. Được vài bước giả vờ vấp rơi củ lở, (thả) con vịt xổ lồng bay ra kêu quạc quạc. Đoành! Tiếng nổ đanh xé làm ta giật thót tim, chim muông hốt hoảng bay tán loạn. Tiếng cười hô hố, tiếng quát tháo, tiếng huýt gió lẫn tiếng lội nước rào rào như trâu đầm gấp gáp phía sau. Anh Nhạ nắm chặt tay, nhìn thật sâu vào mắt ta khẽ nói nhưng rành rọt: Bình tĩnh nhé! Rồi biến mất hút. Ta sợ quá, kêu ầm lên, vừa khóc vừa lồm cồm nhỏm dậy bò ngược suối. Run quá, tim đập thùynh thụych như trống đám ma. Vấp ngã dúi dụi, vãi cả đái. Tiếng chân sải nước sầm sập. Tiếng gió vồ hụt sát sạt sau lưng. Tiếng chửi xì xồ. Rồi thằng tây như con ngựa bạch đã vồ được chân ta, lúc ta ngã sóng soài. Nó cười khùng khục. Tiếng thở hồng hộc sát bên tai phả mùi hôi hám như ngựa đẻ làm ta muốn oẹ. Bàn tay lông lá chạm vào da thịt ta rờn rợn, lúc chạy cái áo đã văng đâu mất.
- Mẹ ơi!
Ta vùng vẫy thét lên.
Lúc gian nguy nhất ai cũng bất chợt thốt lên như thế, nhưng ta thì bỗng thấy mẹ đau quằn quại trong vòng vây lông lá đen thui, sàm sỡ hối hả của quỷ dữ.
-Mẹ ơi!  
Nước mắt ràn xuống môi mặn chát.
Thương tiếc mẹ ta quá chừng!
Trận càn năm trước, lần đầu tiên bản Háng của ta biết giặc dã man rợ đến nhường nào. Lửa cháy ngút trời, đạn nổ chát chúa, khô khốc. Tan hoang nhà cháy, cây đổ, cháy nổ bùm bụp. Tiếng rống của trâu bò lợn gà bị giết. Tiếng khóc thảm thiết, thê lương của người già, con trẻ lẫn tiếng cười nói khả ố, tiếng quát nạt, chửi bới lẫn tiếng roi vọt của bọn tây. Mãi chạng vạng tối không nghe động tĩnh gì nữa, tưởng yên rồi, bố mẹ dắt ta lần về bản mong kiếm cái bỏ bụng. Suốt cả ngày chui lủi dưới hang đất như con dúi đã có gì cho vào mồm đâu. Không ngờ gặp ngay quỷ dữ. Thằng tây đen xì, bế thốc ta lên vắt vai, giữ một tay cứng như kẹp sắt, mặc ta gào thét, quẫy đạp, tay kia kéo lê khẩu súng loẹt quẹt trên đất. Mẹ ta nhanh như cắt giật lấy cây súng, bảo bố chạy đi. Thằng quỷ phải vứt ta xuống để giằng co với mẹ. Chỉ chờ có thế, bố ta quặp luôn lấy con gái yêu lăn ào xuống vực. Hai bố con nằm dưới thung nghe thấy tiếng gào thét phẫn uất, biết điều gì đang xẩy ra với mẹ. Mắt ông vằn đỏ, hai bàn tay hết giơ lên lôi giật tóc lại giận dữ đấm xuống đất tróc cả rễ cây lên mà cào cấu. Hôm sau, trong rừng sâu bố con ta tìm thấy mẹ tím ngắt, co quắp trong váy áo toang hoàng, lấm láp. Cục máu đọng cùng dãi xanh sều khô nơi khoé mép, hàm răng ngậm chặt miếng lá ngón nhai dở. Bố run run cúi xuống, lập cập quờ tay vuốt cặp mắt mẹ còn trợn trừng. Ta đứng như trời trồng, răng cắn môi tứa máu, từ trong ngực uất nghẹn thốt lên con thề sẽ trả thù cho mẹ.
 Năm ấy ta 12 tuổi, giai bản nhiều thằng muốn bắt ta làm vợ.
Người yêu tôi gục đầu vào vai bà, mắt đỏ hoe, thút thít nấc lên.
-Nín đi cháu dâu. Bà âu yếm quài tay ra sau vỗ về, móm mém:  vợ lính thì phải cứng cỏi mạnh bạo lên chứ!
 Thế hệ 8x chúng tôi ngại học những môn xã hội, nói gì đến sử, bởi chúng ít giúp mình kiếm công ăn, việc làm trong thời buổi học càng cao, càng dễ thất nghiệp; còn lứa 9x như em thì…bói cả trường, may có vài ba mống còn thiết tha môn học không bắt buộc thi này. Chuyến thăm quê nội ngoại của tôi trước ngày chúng tôi quyết định về ăn chung bát, ở chung nhà càng có ý nghĩa thiêng liêng hơn là vì thế.
- Ờ nhể! 3 đời ông cha con mình đều lính lấy nhau rồi. Cứng rắn lên cháu  dâu để nghe bà kể tiếp đi đi.
-          Tôi kể đến đâu rồi hở ông?
-         Thì cái đoạn ác liệt nhất mà tôi vãi cả c. ra quần ấy!
Bà nội lại hào hứng kể:
-Đoành! Ớ ợ! Tiếng súng nổ, tiếng rống như bò bị cắt cổ cùng tiếng giẫy giuạ ùng ục trong nước. Thằng tây đang xấn xổ giằng xé váy ta thoáng sững người nhổm lên ngó. Lập tức ta cong người bật dậy, rút con dao lá mía giắt cạp váy chĩa ra luôn về nó. Cùng lúc đó tiếng quát dõng dạc:
- Luviê lơ-măng! ( Giơ tay lên!)
Vụt đứng lên từ đám rau cải xoong, anh Nhạ hướng nòng súng còn khét lẹt mùi thuốc vào ngực nó kèm tiếng kéo quy lát rốp xoạch. Thằng tây bủn rủn giơ tay quá đầu, khuỵu gối xuống, mặt bạc phếch với đôi mắt kinh hoàng. Anh Nhạ nói mấy câu tiếng Pháp và chỉ xuống dưới cách đó dăm bước, nơi thằng đồng bọn nửa chìm nửa nổi đang rên ư ử, khiến nó dập đầu lạy như bổ củi. Đoạn anh đưa súng cho anh Xôn ( ông nội các cháu đây này) mới lao đến hỗ trợ, rồi rút phăng thanh kiếm giắt thắt lưng ra, gại gại đầu mũi cong nhọn hoắt vào ngực nó lờm xờm lông lá, vạch thành nét vẽ máu kéo xuống bụng. Nó ngửa bộ mặt đầy lông lên giời lắp bắp gì không rõ, lại thấy anh Nhạ túm lấy tóc ngôi nó lôi lên, xẻo ngang một phát sợt da đầu trắng hếu, cầm dứ dứ trước mặt nó. Nó gật lia lịa rồi run rẩy đứng dần lên, chưa dám tin mình còn sống, vẫn cụp mặt, lòng khòng bò lùi đến chỗ thằng trúng đạn, hì hục xốc nó truội lên, truội xuống...
Ông nội vừa nâng chén rượu thóc Hang Trú nhắp ngụm nhỏ khà một tiếng, gật gù: Khó khăn nhất của đời một thằng lính là vượt qua nỗi sợ lần đầu nhằm vào Người mà bóp cò. Hôm ấy ông… phọt pịa.(*)  Thật đấy. Khơ Khơ! Cháu dâu, cháu giai ông thông cảm nhá!
 Ông nội ngửa cổ tu nốt, rồi lại rót cho mình chén nữa, thong thả góp chuyện:
-Trai Mường Phù Yên xưa, ai chả bắn giỏi. Ông cũng vậy để săn kiếm con gà, con chồn, trên rừng, con chiên, con quất dưới sông đành là một nhẽ. Còn để oai với giai Thái, giai Mông… lúc giữ đất, giữ mường và cả giữ những đứa con gái nữa chứ. Nhưng giơ súng bắn vào người thì…quả đây là lần đầu. Rủn tỷ quá. Lạnh từ trong bụng rét ra tay, mà mồ hôi từ đầu, từ trán vã ra, ròng xuống mắt cay xè, răng va nhau lập cập. Ôi! Cái khẩu súng săn quen thuộc của của bố ta để lại, xưa nay ta chỉ giương lên rê vào chỗ nào mình thích là bòm chưa bao giờ sảy, xương thú có hàng đống mà sao hôm nay bướng bỉnh?Dường như thấy ta luống cuống, hồi hộp, anh Nhạ bảo đếm đi, khi nào anh hô mới được bóp cò…
Cái thằng tây đen tay lăm lăm súng lì lợm bước từng bước dài, đầu còn ngoảnh ngang nghiêng ngó, chứ không hau háu vất súng đi như thằng tây trắng chạy trước. Chắc biết ông chưa lấy đường ngắm được nên anh Nhạ hô nhằm vào ngực cho chắc ăn. Ông đã tỳ chặt vào hõm vai, mà súng cứ rung bần bật không sao áp má.
-Một ! Hai !  Ba ! Bắn ! Khẩu lệnh nhỏ chắc như đanh đóng vào gỗ ruối.
Ui giời! cú nín thở nặng như đá đè ngực được hất ra. Hai phát đạn nổ cùng một lúc. Thằng tây đen nhẩy dựng lên rồi đổ vật xuống nước. Thằng đồng bọn đứng trông chừng phía sau nó quay đầu cắm cổ chạy thục mạng. Sướng không tả được.
Ông lại tự thưởng cho mình chén nữa. Khà khà! Sướng đến giờ. Các cháu ạ Nhưng phát đạn bắn gần, phá một hốc như cái bát ở lưng nó còn phì phì bọt lẫn máu đỏ lòm chính là của anh Nhạ, súng săn đạn ria của ông không phá được thế. Nhưng anh Nhạ nhất quyết bảo đó là thành tích của ông. Không sao, quan trọng nhất sau lần ấy, ông giết tây không cảm thấy thấy ghê tay chút nào nữa.
-         Thế bà có sướng như ông không hở bà ? Tôi vô lễ hỏi cắt ngang.
-Không! Không đâu cháu giai ạ! Ta ấm ức lắm, có dịp ngon thế mà không trả thù cho mẹ được. Rửa nhục cho ta nữa chứ. Nó giằng xé cào cấu váy xước cả chân cẳng đây. Vết răng quỷ nhằn nhằn trên mặt, trên cổ ta nữa này, tởm lợm đến bao giờ mới sạch. Trời ơi! Sao anh Nhạ lại thả cọp về rừng? Muông thú bị thương bao giờ cũng dữ tợn hơn huống chi thằng giặc. Nó quay lại trả thù thì còn ác nhiều lắm! Chi bằng đánh rắn phải đập nát đầu…Nghĩ vậy, ta phăm phăm bước tới chỗ hai thằng tây đang tha lôi nhau ì ạch. Nhưng vừa vung dao lên thì anh Xôn đã chộp  lấy cổ tay ta, đoạt ngay lấy. Anh Nhạ nghiêm mặt: Lính cụ Hồ không giết tù hàng binh!
*
 Mối tình của chúng tôi giản dị như ốc vít với bu lông.
Tốt nghiệp khoa công trình, trường đại học kỹ thuật quân sự, tôi được điều về đội kinh tế quốc phòng, đóng quân ở huyện nghèo vùng sâu Sốp Cộp, đã bốn năm mà chưa hề bị ai hớp mất hồn cả. Công việc cuốn hút đã đành, cái chính là tôi ngại chuyện đằng đẵng xa nhà chồng nơi, vợ nẻo; lúc tắt lửa tối đèn hay con cái ốm đau. Mọi thứ đều chất lên đầu vợ, tội lắm. Suốt thời niên thiếu tôi sống cùng mẹ trong gian lán tập thể của tỉnh đội dựng tạm cho, ngóng bố đỏ mắt hết Mèo Vạc, Hà Giang lại tít tận bên Lào, tôi thấu hiểu và cảm phục những người vợ lính.
Cuối buổi giao lưu văn nghệ kết nghĩa giữa đoàn thanh niên tỉnh đội Sơn La với sinh viên trường Đại học Tây Bắc có tiết mục tếu “ Nếu - Thì” cứ ngỡ nhàn nhạt, tôi lấy giấy ghi đại ” Tôi là Lính” rồi bỏ vào thùng cho có lệ. Ai ngờ vui phết. Ngẫu nhiên thôi, ví như bên nam ước nếu anh chưa có vợ; gặp ngay lời thưa của cô nữ chanh chua “thì em hẹn anh kiếp sau.”…khiến hội trường cười nghiêng ngả. Lời ướm nếu ‘Tôi là Lính” xướng lên 2  lượt tôi cảm thấy nó cộc cộc, quê quê thế nào, nên vẫn nấn ná. Xướng lần 3 mới miễn cưỡng đứng dậy rồi nhanh nhẹn bước lên sân khấu trong tiếng ồ rân rân của phái nữ: Chuẩn men! Nam tính quá!
- Sao thế nhỉ? Thượng úy còn là lính à?
Em Xi ( MC) cũng hỏi ỡm ờ vậy.
-Vâng ! Chào các bạn. Tôi là Lính. Đinh Công Lính. Tên cúng cơm cũng là tên thường gọi. 28 tuổi. Có 2 con ( giơ 2 ngón tay hình chữ V khá sành điệu) mà chưa được ai cho gửi rể. Báo cáo hết!
Bỏ tay nọ, giơ tay kia chào tạo dáng khá hài hước. Ấy là sau này em bảo thế. Yêu cái dáng ngồ ngộ của tôi như củ khoai đặt giữa ổ bánh mỳ từ giây phút ấy.
- Chính xác! Thật như đếm! Thật như Lính! Hết ý!  Tiếng vỗ tay ràn rạt.
Phía đối diện, cô gái emxy ( MC) thướt tha trong bộ áo dài xanh nõn chuối cũng khôn khéo miệng vừa nói vòng vo, tay vừa khuấy lộn rất dẻo các tờ còn lại trong thùng, chọn rồi gỡ ra, lướt mắt mỉm cười đọc to, rõ to: “ Em là Ngần mà không ngại theo anh” Hay ! Hay quá phải không các bạn? Xin một tràng pháo tay!
 Và vỗ tay.
 Em bẽn lẽn đứng lên. Tôi, sao lúc này bỗng nhắng thế cơ chứ, chạy vội xuống đỡ tay, sánh vai em thanh thoát bước lên.  Có lẽ, chương trình tôi là chiến sỹ  trên TV ngấm vào máu, giờ mới được dịp phát tiết hay sao mà tôi trở nên hoạt bát, ga lăng thế không biết.
 Em tên Ngần thật.
Biết em từ ấy, thi thoảng điện thăm nhau, lương vương đôi chút thôi chứ hơn trăm cây số dễ gì muốn là gặp được. Mãi đến hôm đón đoàn trí thức trẻ tình nguyện vào nhận công tác, không ngờ có em. Vừa nhác thoáng thấy, tim tôi đã như muốn nhảy khỏi nơi cư trú. Em bộc bạch, về quê, em chắc suất làm máy may công nghiệp quá, như các chị em ở làng chẳng ai học hết phổ thông thôi. Tiền đâu chạy được vào đâu? Buồn lắm phải không anh? Vả lại, em cũng muốn thử sức mình ở nơi khó khăn. Từ hôm ấy, ( em đỏ mặt, khẽ khàng ) em cứ ước mong được quân đội các anh tuyền dụng.
-         Có muốn làm vợ lính ở luôn đây không nào, anh làm mối cho!
Cả hai đỏ mặt. Dường như ai cũng nghĩ thầm: ốc đòi mang cọc cho rêu. Nhìn nhau cười phá lên, lòng trào dâng niềm vui phơi phới, lạ chưa từng thấy.
Tôi quân kỹ thuật, em dân kinh tế, làm việc khá ăn ý với nhau trong việc xây dựng và thực hiện dự án phát triển nông thôn mới trên địa bàn được phân công, và cảm thấy… như ốc vít với bu lông, không muốn / không thể thiếu nhau, kể cả trong ý nghĩ.
*
Bà tôi tuổi đã 80, dáng đi vẫn thảng thớm, nhanh nhẹn và làm lụng không ngơi tay, bà biết xe lanh, nhuộm chàm, dệt váy như gái Mông; lại cả nấu rượu, thêu thùa như đàn bà Thái. Từng ở sườn dãy U bò cao ngất hoang sơ rồi theo ông tôi bươn bả dọc sông Đà, bà tôi không nhớ hết mình đã bao lần dựng tổ ấm ở những đâu nhưng ký ức rớm máu trái tim thiếu nữ thì không bao giờ quên được. Bà nói nhiều về anh bộ đội vũ trang tuyên truyền chiến khu 99 ( Trước lúc bị lộ gọi là Pắc Pắc) năm xưa với lòng cảm phục pha lẫn thương yêu đến nghẹn ngào.
Bà chầm chậm lục trong rương lấy cái hộp gỗ nhỏ, do ông nội đẽo gọt công phu tặng bà hơn 60 năm trước rồi mở ra. Vẫn phảng phất thơm hương Pơ mu. Một tấm ảnh đen trắng( lụa) khổ 4x6 đã ố vàng được bà ngắm rất kỹ trước khi đưa cho chúng tôi xem. Trái tim bà đã trao cho người này.
-Úi! Ông nội cháu. Bà ơi! Ông nội cháu đây thật mà! Hu hu! Ông ơi! Hai tay Ngần run run áp tấm ảnh vào ngực, ngửa khuôn mặt đầm đìa lên nức nở. Ông bà  tôi sững sờ rơm rớm theo. Tôi lặng lẽ đứng yên để mọi được khóc cho nhẹ lòng.
( Còn nữa)
                                                                                08/7/2016

(*) Nghĩa bóng : Vãi cả c. non

Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015

CƯỠI THUYỀN XEM CÂY

Trên vùng cao, chuyện mất rừng đã xưa như trái đất, như là chuyện tất nhiên của bà con bản địa, tỷ lệ thuận với sản lượng ngô, còn tỷ lệ nghịch với gì, họ chả cần biết....
Thế nhưng, ở cửa sông Hồng mênh mông sóng nước ùa ra, trộn lẫn nước ngọt, nước mặn, lại có những người kiên trì ...trồng cây, giờ đã nên rừng.  Đây là rừng ngập mặn đầu tiên ở Việt Nam được quốc tế công nhận theo công ước Ramsar, rừng ngập mặn thứ 50 của thế giới.

( Ảnh trên trang du lịcNam Định)
Chính vì thế đã thôi thúc chúng tôi về với rừng ven biển. Chính xác là rừng ngập mặn.Đoàn do anh Trần Đại Tạo, chủ tịch Hội đẫn đầu.

được Hội VHNT  Nam Định đón tiếp trọng thị.
Đứng trên chòi quan sát


Và cưỡi thuyền xem cây.
Trên đường di trú tránh rét, hàng vạn cánh chim đã đỗ ở nơi này

( Ảnh trang Du lịch Nam Định)
Chúng tôi thầm ao ước, vùng lòng hồ tỉnh ta, nếu giữ gìn, chắc chim muông, cầm thú... cũng tìm về!

Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

THÁI TỬ ĐẢNG

VẦNG TRĂNG HẠ HUYỀN
( Ký sự hai lần qua Sơn La)
1.Giáp hạt năm 1987.
 Đói vàng mắt.
Quê tôi, vựa lúa nơi châu thổ sông Hồng mà dân phải nháo nhác chạy lên vùng bán sơn địa Đồn Dương, Hàng Trạm (Hoà Bình) khuân sắn về kìn kìn, lấy công làm lãi, chỉ dám ăn đầu đầy, nhiều sơ, ít bột sái quai hàm. Mới  ở Đức về, khá giả hơn người làng tí chút, tôi đong gạo trắng, thổi cơm thơm nhức mũi mấy đứa cháu hàng xóm thập thò ngoài đầu ngõ. Nhìn những ánh mắt hau háu quanh nồi cơm phả hơi ngào ngạt, nhớ cảnh sung túc bên Đông Âu trẻ em ngày ăn 5,6 bữa lòng tôi se sắt…
Thế rồi, tôi bỗng thành “ con phe” bất đắc dĩ đầy tủi nhục.
Đó là khi tôi lên thăm và chuyển quà cho gia đình anh bạn trên Điện Biên, đợi hai ngày vẫn không mua được vé xe về. Đang buồn nản thì gặp được ngay chàng lính xế quá cảnh tăm hàng để xuôi cho quá giang. Mừng như chết đuối vớ cọc, giá có đắt hơn,  nhưng lại được thoải mái trải nghiệm cùng “ hung thần đường 6”. Mới nghĩ đã sướng rên.
Rong ruôỉ đến Mường Ẳng thì xe dừng lại ăn hàng. Sắn thái lát/ chặt khúc phơi ối ái suốt dọc đường. Mỗi nhà mỗi giá, tuỳ độ trắng ngon, hoặc khô, hoặc ẩm; nói chung là thuận mua vừa bán; lão xế cứ vờ ca cẩm đắt như thuốc đau mắt thế hả giời? Nhưng rắc rối chỉ thực sự nổi lên khi mã cân cuối cùng được ních lên chật thùng; cửa hậu đóng mãi mới chịu ăn ngàm, Chốt sổ, lão xế khẩn khoản chỉ đủ trả mỗi hộ nửa tiền, còn khất chuyến sau lên thanh toán nốt. Thế là ầm ầm như chợ vỡ. Dân bản xông lên xe, nhất quyết một hai đòi bới tháo sắn xuống. Lão xế ma lanh, liếc xéo vào chiếc RADO mạ vàng trên cổ tay tôi thầm thì cầu cứu. Lão rủ tôi chung. Nào có biết giá cả gì đâu, lờ lãi thế nào, nhưng nghĩ đến những đứa cháu ở nhà đang thèm cơm, nửa xe sắn này dễ cứu được cả đại gia đình qua cơn bĩ cực, tôi gật đầu cái rụp, với điều kiện lão phải chở về tận nhà cho tôi. Hợp đồng miệng được ký kết bằng cái bắt tay. Xong.
Lão lái xe được tôi cứu nguy bàn thua trông thấy, sướng củ tỷ, cười  nói ha hả, chuyện như pháo rang qua đèo Pha Đin.
-Dằng dặc quanh co thế này mà cụ Tố Hữu xưa chỉ gọi là dốc nhỉ?
-Đây thuộc đất Sơn La rồi chú em ạ! Thuận Châu, tiếng vậy thôi chứ có mà nghịch châu. Nghịch nặng. Xa xưa tên là Mường Muổi, có giặc Thượng Nghiễm ngang ngạnh chống lại triều đình, đức Lê Thái Tông phải hai lần thân chinh phạt mới yên. Thời phong kiến đế quốc bọn người Mông xưng vua đấy, Pháp còn phải kiềng. Đầu thị trấn rồi, nghỉ tý nhỉ?
- Có gì lạ không? Tôi háo hức.
- Giời ơi! Thế mà cũng đòi báo với chả chí! ( Tôi trót chém gió, mình là thông tin viên báo quân đội ) Đây là nơi cụ Hồ, bác Giáp lên thăm khu tự trị Thái Mèo, khen khoai sọ bản Củ Cang ngon lắm đấy!
-Hay quá! Thế phải mua một vài rọ về ăn xem ngon mức độ nào mà được lãnh tụ khen nhỉ?
Một đèo nữa. Lại một đèo nữa. Nhìn hai bên đồi rặt đất cằn, cây cộc điù hiu. Xuống hết đèo gặp thị xã Sơn La phơi mình lô nhô trong nắng. Nghèo quá, chẳng mấy cái nhà ngói. Tôi thốt lên. Thì ra thị xã vừa qua bị hoả hoạn thiêu rụi bản Lầu. Đang dọn những bức tường đổ nát, những cây cột đen nhẻm, xiêu vẹo tang thương. Ông lính xế lại được dịp trổ tài hiểu nhiều, biết rộng, hào phóng dừng xe, chỉ tay sang nghĩa trang Gốc Ổi ( đúng ra là Tô Hiệu). Đối diện bên kia trên đỉnh ấy là khu di tích Nhà ngục Sơn La, cổ thụ xanh um rủ bóng trầm tư. Giờ ta vẫn đặt bộ máy hành chính tỉnh ở trên đồi Khau Cả ấy đấy. Đẹp. Bao quát hết cả vùng. Cha bố thằng thực dân giỏi thật. Quy hoạch trước hàng trăm năm mà không lạc hậu nhỉ? Lão cười sằng sặc khi xe lăn qua cầu Cầu Trắng, huơ tay qua vô lăng: Chú mày nhìn thấy gì chưa, chả bù cho mấy kiến trúc sư thời ta còn giỏi nữa? Ồ hô! Đếm đi! Một dãy 13 nhà vệ sinh mới xây vôi quét trắng toát, ý tứ quay lưng ra đường, còn mặt hướng vào khu đất rộng làm bãi đỗ xe ca.! Đúng là khổ nhục kế, binh pháp Tầu chú mày nhỉ?
Tôi phục lão lái xe sái cổ. Nếu không vướng cái xe sắn ngẫu hứng trời đánh kia, thế nào tôi cũng tụt xuống đây thăm thú để thoả lòng khao khát. Xe đã qua mà cổ tôi còn ngoái lại. Đấy là sân bay Nà Sản hoang phế, nhìn từ quốc lộ 6 vào thấy loang loáng đường băng còn sáng nhễ. Đầu tôi như vang lên lời giảng về nghệ thuật đánh công kiên rút ra bài học từ xương máu các dũng sĩ can trường đánh trận Nà Sản ác liệt năm nào…
           Chiếc Barie bằng cây tre quyệt sơn mầu đỏ trắng xen kẽ nhau như con rắn cạp nong khổng lồ vừa nhổng lên cho một chiếc xe qua, lại đã vội hạ ngay xuống bởi chiếc dây thừng có người đeo băng đỏ sải tay ghì kéo một lèo, va mạnh vào chốt ngang xuyên hai đố đứng chôn vệ đường, rung lên bần bật. Tiếng còi xoé lên, cùng với lá cờ đuôi nheo mầu đỏ trong tay chú mặc sắc phục vừa chạy ra giơ lên vụt xuống, nhanh và dứt khoát như nhát chém.
           - Gì thế nhỉ? À! Thì ra là ngăn sông cấm chợ vẫn nghe nói trên đài.
           - Đây là đâu ? Thị trấn Hát Lót, huyện Mai Sơn.
          Mấy người trong đội liên ngành vững như bê tông, không mảy may xúc động trước sự van nài của các khổ chủ chúng tôi. “ Lý lẽ con phe”, lời phỉ báng thoát ra từ miệng người đeo xắc cốt đen như mũi kiếm xiến vào tim khiến tôi, chẳng những không gục ngã, mà mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Tôi cãi vì thấy cực vô lý. Sắn đâu phải hàng quốc cấm. Bảo là nhà nước quản lý thì tại sao trên Điện Biên, Thuận Châu… phơi bán đầy đường, ai mua bao nhiêu tuỳ thích?
         - Chờ đấy! Lão tổ trưởng hậm hực nhìn tôi nói rồi cùn cụt bỏ đi, khoảng nửa giờ sau thì tôi hoàn toàn bị giục xuống bởi tờ giấy pơluya trắng, đánh máy chữ xanh tím than, phó chủ tịch huyện ký, được dấu quốc huy đỏ chót đóng đè lên, do lão đích thân trịnh trọng mở xắc cốt ra, đưa cho tôi với vẻ mặt đắc thắng. Đó là quyết định thu mua xe sắn chúng tôi với giá chỉ nhỉnh hơn tiền thuê bốc vác một chút.
           Tỉnh dậy, tôi ngơ ngác nhìn quanh, toàn người lạ, bần thần nhớ chuyện vừa nãy, lại buốt nhói nơi ngực. Thì ra, lúc tôi tiếc của, khựu xuống mê man, người ta dìu vào nằm nghỉ nhờ nhà cô gái này. Hỏi han, biết cô là lính D này, E nọ, F391 mới chuyển ngành về huyện hội phụ nữ. Trời ơi! Tôi mừng rỡ reo lên. Cùng đơn vị rồi. Trước anh ở Bộ tham mưu 559, giờ đổi là Binh đoàn 12 đấy em. Vâng! Như là đã gặp nhau ở đâu rồi ấy, anh nhi?
. Em chu đáo như người chị hiền biết lo toan, động viên tôi mạnh dạn trình bày hoàn cảnh lên chú bí thư đi. May ra…. Bên uỷ ban áp nguyên tắc, đôi khi thái quá, khổ dân. Chứ khối Đảng và đoàn thể đều thấm nhuần tư tưởng lấy dân làm gốc, vận dụng mềm mại để thấu tình đạt lý của chú bí thư…Em lại cũng như đứa em gái ngoan, xăng xái đi kiếm giấy bút, kê bàn, kéo ghế… khiến tôi phấn chấn hẳn.
Và một phần ngàn tia hy vọng đã loé lên.
Cơm nước xong, (nhệu nhạo vài miếng để em vui lòng, chứ nuốt sao nổi) tôi hăm hở thảo ngay một đơn kêu cứu khẩn cấp rồi tất tả cùng em ( người nhà rồi mà) sang nhà chú chánh văn phòng huyện uỷ. Gọi là nhà cho sang, chứ thực chỉ là nửa gian lán lợp gianh, vách trát bùn rơm, nền đất lồi lõm mà nhẵn thín, trông gọn gàng sạch sẽ. Chăm chú nghe xong câu chuyện tôi trình bày, chú bảo, bây giờ dân cũng phải học mà biết buôn, chứ cân gạo hôm nay bán ra, tiền giữ chặt trong váy, sáng mai chỉ mua được có bẩy tám lạng, không biết nó chạy đi đâu mất? Ai cho nhiều tiền thì mình khắc bán cho, ai bán rẻ mình khắc mua, không ép buộc nhau được? Tôi mừng quýnh, liu ríu nói không rõ lời:Đú…ng  đúng vậy bố ạ! Chú đứng lên cẩn thận gấp tờ đơn đặt vào lòng cuốn sổ, bỏ trong túi thổ cẩm khoác lên vai không quên dặn tôi cứ yên tâm ngồi đợi chú lên tr×nh thủ trưởng.
Thực lòng, tôi không dám mơ ước cao xa, chỉ mong họ duyệt lại mua cho cái giá phải chăng để mình đỡ lỗ thôi, chứ theo như tờ quyết định quỷ quái kia, thì rõ mất đứt cái RADO mạ vàng cùng chiếc nhẫn 24 Cara đeo ngón giữa, kỷ vật được bòn nhặt, tích cóp từ hàng trăm đêm lọ mọ quét tầu hoả nơi xứ tuyết lạnh thấu xương…Lại hiện lên hình ảnh những đứa cháu đói dài cổ ngong ngóng chú về kiếm bữa ăn no. Ngồi một mình trong phòng chật hẹp xa lạ, thời gian như chậm quánh lại. Quen tay giơ lên xem giờ. Nhẹ bÉng råi. Buồn não ruột. Giận mình quá. Tự dưng đâm đầu vào rọ. Hận lão lính xế bẻm mép ngáy pho pho, mặc kệ tôi ngược xuôi hồ tẩu. Và uất ức… cứ duyềnh lên.
Tiếng chú văn phòng lướt vào tai nhẹ như gió thoảng:
-Bí thư mời đồng chí lên gặp ngay bây giờ!
Tôi lập cập theo sát chân người cán bộ mái tóc đã hoa râm nhưng dáng rất thanh thoát, nhanh nhẹn, còn phân vân không biết bí thư sẽ hỏi gì để giả nhời thì đã thấy chú ra hiệu dừng lại. Qua cánh cửa khép hờ, dáng người đàn ông cúi lom khom nghiêng tai áp vào ống nghe, còn ống thoại có vẻ như hơi nghểnh ra xa đang lúi húi ghi chép. Sau này, tôi mới ngộ dần, phải chăng đó là phong thái của những người nghe nhiều hơn nói. Chứ lúc ấy, tôi chỉ biết hít một hơi đẫy cho bớt hồi hộp. Bí thư huyện ủy còn khá trẻ so với sự tưởng tượng của tôi, dáng người tầm thước, rắn rỏi, khuôn mặt cương nghị với hàng chân mày rậm, nhưng vẫn toát lên vẻ phúc hậu. Ánh nhìn thẳng. chân tình chứ không vẻ gi soi mói, lời nói cũng ấm cúng: Đồng chí có giấy tờ chứng minh những điều đã viết trong đơn chứ ?
-Thưa anh! (đang là đối tượng bị xử lý, tôi đâu dám đồng chí, đồng tình với bí thư ) Có đủ ạ!
- Thế thì tốt! Anh lại cắm cúi viết. Lúc sau anh ngẩng lên:
-Đồng chí có vi phạm theo quyết định xxx về quản lý lương thực, đáng  phải xử lý như quyết định do đồng chí phó chủ tịch huyện đã ký ban sáng.
Tôi sững người, chưa kịp định thần thì anh như đọc luôn trong tờ giấy giải quyết công việc:
“Nhưng xét nguồn gốc hàng hóa, nhân thân chủ hàng cũng như phương tiện, nếu đúng như đơn trình bày, đề nghị đồng chí chủ tịch ủy ban nhân dân huyện linh hoạt xem xét giải quyết thu hồi lại quyết định đã ký.!”
Trong lúc chờ chú Páo (tên đồng chí chánh văn phòng huyện uỷ) lên đóng dấu, anh rót nước mời tôi, cử chỉ ân cần như tiếp người thân làm tôi cảm động. Anh hỏi giá mua sắn trên Điện Biên, giá thu mua huyện mới áp sáng nay, rồi rủ rỉ tâm sự như không hề có sự ngăn cách nào, giữa quan đầu huyện với kẻ vãng lai đang vướng oan khiên:
-  Góc độ cá nhân mà nói, nếu các anh mà về địa phương tôi tiêu thụ sắn cho bà con, tôi còn cảm ơn. Sản xuất phải nhờ lưu thông kích thích  mới phát triển được. Năm ngoái, mận tam hoa đổ thối đầy vệ đường xót xa lắm. Vụ sắn này phải thay đổi, tôi đã kiến nghị thường vụ khẩn cấp xem xét chứ cứ để mấy ông bà lương thực mới thương nghiệp quen khệnh khạng, giá cả đã bèo bọt, lại chậm tiền, thái độ hách dịch nữa…dân không chịu đâu? Mình lại dùng chính sách để ép, thì dân chết đói. Bản thân người làm dịch vụ phải thay đổi chứ, phải cạnh tranh lành mạnh với tư thương như các anh chứ (Tôi giật thót người, lắp bắp. Dạ ..da.) Mục đích cuối cùng là giá cả phải hợp lý, người đi buôn sống thì người trồng sắn cũng phải có ăn mới sống được. Rồi giọng anh chùng xuống, trồng cái anh sắn này, phá đất lắm. Anh khoe bản anh, xã anh mới đưa cây cà phê chè  vào chắc hiệu quả kinh tế cao hơn. Có khách đến, tôi ý tứ lui ra, đúng lúc chú Páo tới  dẫn tôi sang bên ủy ban trình bày với chủ tịch huyện. Từ lúc ấy, tôi như người ngoại quốc, mù mờ nghe hai chú trao đổi với nhau bằng tiếng Thái chả hiểu gì. Một lúc sau, xuất hiện thêm một cán bộ người cao gầy, nói giọng Nghệ. Anh ta chắp bút, sau khi hỏi tôi một số thông tin. Cuối cùng, anh xin phép chủ tịch đọc biên bản làm việc. Trời ơi! Ba cái tiêu chí mà đồng chí bí thư gợi ý, đã được anh diễn giải thế này:
1/ Xuất xứ hàng hoá: Sắn mua giá cao từ Lai Châu về. Không hoá đơn. Tội danh lũng đoạn thị trường.
2/ Nhân thân chủ hàng: Bộ đội (học nước ngoài) nghỉ phép kết hợp buôn chuyến.
3/ Phương tiện: Xe quân sự đánh quả.
Tôi chỉ biết kêu trời thầm trong bụng. Suy diễn kiểu này quả không sai là mấy nhưng oan lắm. Miệng nhà quan có gang, có thép. Lớ ngớ dễ ngồi tù đến nơi chứ chả bỡn đâu ?
Những tưởng mình kiên gan lắm, đã từng tay bo với thằng Tầu cao vượt cả chỏm đầu, bị nó đá cho ngã sóng soài, thế nhưng đúng lúc nó giơ cẳng đạp vào háng thì tôi bật dậy húc đầu chí mạng vào háng nó làm cu cậu chết giấc ngay tức khắc. Sao giờ đây tôi cam chịu để hai hàng nước mắt túa ra.? Em gái huyện hội thập thò vẫy vẫy: Sao rồi anh? bọn quản lý thị trường bảo 5 giờ không đến nhận tiền thì họ xung công quỹ! Chú Páo đến bên tự lúc nào, đặt tay lên vai tôi bóp nhẹ, rồi tất tả cắm đầu bước rảo về khu huyện uỷ.
Bạn đọc kính mến! Tôi không đủ vốn từ để diễn tả hết nỗi uất hận được vất đi, thay bằng niềm hân hoan vỡ oà ở phút cuối cùng ngày làm việc hôm ấy khiến tôi nức nở, cứ đứng như trời trồng trước cửa phòng chủ tịch huyện, khiến ai đi qua cũng ngạc nhiên rồi phì cười. Mãi sau lão lính xế chạy ra lôi xềnh xệch, quát toáng lên, tôi mới nín, lẽo đẽo theo lão về kho lương thực nhận lại hàng. Chằng buộc xong xuôi thì trời tối mịt.
 Ngồi vào mâm cơm được một lúc thì điện tắt ngấm (Máy phát chỉ chạy chừng chừng mười rưỡi, mười một giờ vậy vậy.).Ôi! trăng hạ tuần! Ai đó kêu lên, rồi tất cả cùng ngó lên đỉnh đầu thích thú. Trăng sáng nhễ nhại và mát lạnh. Bê mâm ra ngoài sân, lại quàng chéo tay nhau uống rượu nhận anh em. Hẹn gặp lại. Nhá. Nhất định rồi. Vậy mà tôi vô tâm quá, đã không hỏi tên em. Đến giờ vẫn chưa biết tên em. Dù chỉ cần nhắm mắt là hình ảnh cô gái mảnh dẻ, nước da nâu giòn, mái tóc thưa thả xoã ngang lưng, với ánh mắt đầy lo toan của một người quen tần tảo bữa ấy…lại hiện lên. Nao lòng.
2. Bao nhiêu năm tháng đã qua đi, mãi đến năm 2010, tôi mới có dịp ngược Tây Bắc, giữa mùa thu ngô mênh mông vàng rộm. Suốt rẻo Mộc Châu, Yên Châu đến Mai Sơn thi thoảng lại gặp nhà xưởng sấy ngô khung thép, mái tôn to rộng xếp cao chất ngất, 2,3 con đầu kéo 4, 5 chân lùi vào ăn hàng vẫn còn lọt thỏm. Sơn La là thủ phủ mới của cà phê và ngô. Hai cây chủ lực cùng với cây chè truyền thống đã xoá đói, giảm nghèo và làm nên thương hiệu mạnh cho hòn ngọc miền Tây tổ quốc. Sơn La đã thay da đổi thịt từng ngày. Sự no ấm, phong lưu đã hiển hiện từ những bộ đồng phục học trò đẹp mắt, phấp phới tấp nập trong các khu trường cao tầng khang trang, đầy ắp những tiếng cười vui; hiển hiện trên những khuôn mặt phụ nữ rạng ngời mải miết hái cà phê từng chùm đỏ rực mà tôi vừa hỏi chuyện. Ở cả anh thợ lái chiếc máy cày be bé, như rong chơi trên ruộng nước. Hiển hiện ở các cơ sở dịch vụ hiện đại ô tô, điện máy, viễn thông… Rồi chợ, rồi dọc các phố sầm uất đầy ắp hàng hoá.cao cấp xếp tràn cả vỉa hè mời mọc người mua..nói không ngoa chứ không hề thua kém thị trấn miền Đông nước Đức hồi tôi học.(1987). Tuy đây đó ở vùng sâu, vùng xa… vẫn còn  gian khó, thậm chí nghèo, nhưng tôi vững tin so với hơn 20 năm trước, ngày tôi lạc bước quá giang, Sơn La đã vươn dậy thần kỳ, như một giấc mơ và còn tiến mạnh hơn, vững chắc hơn.
 Nghĩ về chuyến đánh quả cò con vô tiền khoáng hậu năm nào, về sự ấu trĩ một thời cung cách phân phối lưu thông, tôi càng nhớ em bộ đội chuyển ngành về huyện hội phụ nữ, nhớ chú Páo, chánh văn phòng huyện uỷ, chắc đã mừng lên đại thọ. Đặc biệt, người bí thư huyện uỷ Mai Sơn hồi đó, qua báo đài tôi được biết anh vẫn tỉnh uỷ viên, hiện là phó trưởng đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, uỷ viên Hội đồng dân tộc QH ( khoá XII.) Tài ấy, đức ấy anh xứng đáng được giao trọng trách ấy để có điều kiện cống hiến nhiều hơn cho quê hương, đất nước. Dấu ấn đậm nét của chính khách từng đăng đàn nhiều lần trên nghị trường quốc hội, chính là nguyện vọng cấp thiết nảy sinh từ cuộc đại di dân lịch sử trên công trường thế kỷ lớn nhất Đông Nam Á mà anh được gần triệu dân Sơn La tin yêu gửi gắm quyền thay mặt họ. Vâng ! Thưa các bạn chính là anh Cầm Chí Kiên. qua chú Páo, hồi ấy tôi còn biết anh là con trưởng của nhà cách mạng lão thành, người vinh dự dược Bác Hồ đặt tên: Cây Măng Vàng.( Hoàng Nó) trong hơi men chuyếnh choáng tôi nhanh nhẩu tiếp lời: Trứng rồng lại nở ra rồng/ Măng vàng vàng đã măng vàng lớn khôn.
 Loanh quanh tôi cũng gặp được anh, bên lề hội nghị. Hơn 20 năm rồi thấy anh có già đi, hói lên đỉnh đầu, càng lộ vầng trán rộng sáng láng, thông minh. Phong thái vẫn khoan thai, đĩnh đạc như xưa. Vẫn giọng nói ấm, vang và ánh nhìn nồng hậu..Tôi gợi chuyện xưa, hỏi anh còn nhớ chăng? Thật không ngờ. Anh ngơ ngác một lúc rất lâu mới khẽ gật đầu, cười độ lượng, nắm chặt tay tôi: Buồn cười nhỉ? Ôi !Cái chỉ đạo mang tầm chiến lược góp phần xoá nạn cát cứ địa phương, ngăn sông cấm chợ đáng nguyền rủa. Đó là ánh trăng hạ tuần, đêm trước của đổi mới, tạo đà cho đổi mới, với anh chỉ nhẹ nhàng như lẽ tự nhiên vậy thôi sao?
3. Mấy ngày gần đây rộ lên chuyện Thái tử Đảng, tôi bỗng nhớ tới anh cùng câu chuyện lúc sa cơ thời trẻ, cùng với suy nghĩ thật bình dị. Nếu mọi thái tử Đảng vì lợi ích của dân, dám chỉ đạo thay đổi cả quyết định của chính quyền…thì sao ta không hoan nghênh ủng hộ?

                                               NĐ, 9/2015