Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

CHÙM THƠ XUÂN NGỌC VỀ THU

Bữa trước, đã giới thiệu Xuân Ngọc, BTV đài PTTH Phú Thọ yêu thơ và viết khá đều. Thơ Ngọc trẻ trung, tươi tắn khá giầu chất suy tư và vẫn trung thành với lối viết truyền thống. Xin giới thiệu 2 trong số các bài Ngọc mới gửi.
 CUỐI THU
 Cỏ đã kịp lan đầy lối nhỏ
 Con đường xưa vắng bóng đi về
 50 tuổi trong cuộc đời dâu bể
Chỉ an lòng dưới mái nhà quê
 Đêm… một mình…rất khuya
Dường như ngoài kia đất cùng trời không ngủ
Gió miên man gọi về
Những ký ức mùa thu
 Ngọt ngào lời ru của mẹ
Ấm nồng hơi ấm tình cha
Bao âu lo trong mỗi bước đi xa
Bỗng tan biến khi trở về nguồn cội 
Con mới hiểu khi vượt qua bóng tối
Càng vững tin sức sống tình người
 Bước qua những bon chen giả dối
 Vườn nhà mình vẫn một đóa tinh khôi

Thứ Sáu, 21 tháng 11, 2014

ĐỢI!

Bài thơ Đợi của Vũ Quần Phương là một trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.
Chờ đợi điều tốt đẹp, một hình bóng thân yêu, cho dù tắt nắng còn anh đứng mãi đây. Đó là hạnh phúc. Cho dù hạnh phúc trong khắc khoải, dồn nén đớn đau. Em đến? Em không đến ?
Và thật đau, nếu sự mong ước, chờ đợi đến cháy lòng ấy đã không thành sự thật!
Đó là gì?
Theo VichtoHuygo" Ước mơ là hạnh phúc- chờ đợi là cuộc đời"
Vâng ! Đúng là cuộc đời 
mời các bạn thưởng thức 
Một lát cắt 
của một cuộc đời
Trong những cuộc đời 
tôi yêu 
 
   
         
ĐỢI

Em gai góc giữa cuộc đời thường nhật
 Long đong
                   Tất bật
                              Buồn
                                        vui
                                             
Đợi mưa rơi ràn rạt phố đông người
Đợi trăng tròn lại khuyết
Đợi bà tiên kì cạch gõ vào đêm
một niềm tin
vô vọng!
Khát khao
                 Đời thường
                 Lơ lửng
                             Buông rơi
Đơị một điều ảo thực
" Đông tới rồi có lạnh em không?"
    
                                
                                                        Sơn la, 14/11/2014
Hiền Quang


Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Tản luận về thơ trên văn nghệ Nam Định

Rất khúc chiết!

MẤY KHÚC TẢN LUẬN
 
                  
    1/ "Nàng Thơ" ở đâu?

    a/ Hiện thực cuộc sống đã là thơ.
   Cả cuộc đời của Bác Hồ là một bài thơ vĩ đại. Nhiều nhà thơ nhạy cảm đã bắt được nàng Thơ ngay trong những sinh hạt đời thường của Người và cứ thế mà đưa luôn vào sáng tác. Trường hợp bài "Đêm nay Bác không ngủ" của nhà thơ Minh Huệ là một ví dụ. Tác giả hầu như không cần phải dùng đến các thủ pháp nghệ thuật. Bài thơ chỉ kể lại rằng vào một đêm có một vị "vua" không ngủ. Người đi "dém chăn" chăm lo cho giấc ngủ của các chiến sĩ. Nàng Thơ ơi! Chính hiện thực cuộc sống đã là Nàng.
  Tố Hữu kể rất thật về tội ác của Mỹ - Diệm thời những năm sáu mươi của thế kỷ trước trong "Lá thư Bến Tre":

  "Anh biết không Long Mỹ, Hiệp Hưng
   Chúng giết thanh niên ác quá chừng
   Hai sáu đầu trai bêu cọc sắt
   Ba hôm mắt vẫn mở trừng trừng

   Có những ông già chúng khảo tra
   Chẳng khai chúng chém trước sân nhà
   Có chị gần sinh không chịu nhục
   Lấy vồ nó đập vọt thai ra"


  Ngoài sự man rợ của giặc độc giả còn thấy được nỗi khổ nhục của người dân mất nước, lòng căm thù giặc ngùn ngụt dâng trào. Tác giả chỉ cần tả thực đã đủ là một bài thơ tố cáo có nhiều tầng ý nghĩa.
   Chúng ta hãy đọc những dòng viết rất thật của nhà thơ Vương Trọng về mười cô thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc:

   "Bữa cơm cuối cùng mười chị em không có gạo
   Nắm mỳ luộc chia nhau rồi vác cuốc ra đường
.......Ngày bom vùi tóc tai còn bết đất
   Nằm xuống mộ mái đầu chưa gội được"...


   Ở đây tác giả cũng không hề sử dụng một thủ pháp nghệ thuật nào. Cái tài của nhà thơ có chăng chỉ là người biết chọn lọc những chi tiết hiện thực đã là thơ.
   Cảm động quá! Đến phạm nhân trước khi người ta đưa đi thi hành án tử hình còn được cho ăn no. Đến người thường chết, trước khi khâm liệm còn được người nhà tắm rửa sạch sẽ. Người đa cảm đọc câu thơ ấy không cầm lòng được.
  Trong sinh hoạt bình dị của cuộc sống hàng ngày cũng không thiếu gì những chi tiết nên thơ. Ta hãy đọc thơ của Trần Doãn Nho, một tác giả không chuyên ở Câu Lạc Bộ thơ Non Côi viết về tình cảm của hai vợ chồng nghèo trong bữa ăn đạm bạc:

           "Canh bầu thêm quả trứng tròn
           Canh rau thì hết, trứng còn nhường nhau."


  Hiện thực tươi roi rói. Cặp lục bát không dùng bất kỳ một thủ pháp nghệ thuật nào nhưng ai cũng phải thừa nhận đây là một câu thơ hay.
   Nàng Thơ ơi! Nàng ở ngay trong cuộc sống thường ngày. ấy thế mà các nhà thơ đi tìm  nàng sao mà khổ sở? Họ lao tâm khổ tứ rượt đuổi nàng như chơi trù ú tim ấy thế mà có khi cả đời chẳng một lần bắt gặp.
    Nhưng nếu có cơ may gặp được nàng thì xin các nhà thơ cứ ung dung  "rước nàng về dinh". Tôi tin tưởng những câu thơ ấy có sức truyền cảm mạnh nhất và chả bao giờ cũ.

  b/ Sự thăng hoa của cảm xúc cộng với các thủ pháp nghệ thuật đã dắt Nàng Thơ theo ngòi bút hiện hình lên trang giấy.
  Như nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã tổng kết là muốn có những câu thơ tài hoa thì người viết phải có ba yếu tố: xúc cảm khác thường, suy nghĩ khác thường và cách nói khác thường (các thủ pháp nghệ thuật). Các thủ pháp nghệ thuật có thể là nhân hóa, so sánh, ẩn dụ, điệp ngữ... v.v...
  Nàng Thơ bây giờ lại không hiện hình ngoài hiện thực nũa, nên khi chụp nguyên bản hiện thực thì lại chả thấy thơ đâu. Chỉ khi nhìn nhận qua lăng kính của các nhà thơ người đọc mới thấy. Nàng hoàn toàn ẩn mình trong sự tài hoa của mỗi cây bút.
   Khi nhìn ba cây kim đông hồ có nhà thơ viết:

                   Ba thanh đoản kiếm vô tư lụ
                   Chém mọi thời gian, mọi kiếp người


   Với trái đất Xuân Diệu chiêm nghiệm":

                   Trái đất ba phần tư nước mắt
                   Đi như giọt lệ giữa không trung


   Và Đoàn Mạnh Phương đằm mình trong cõi tâm linh:

                   Tôi xây một nghĩa trang tận đáy lòng mình
                   Chôn cất những giấc mơ gãy cánh


  Ta có thể tìm thấy vô vàn những câu nhờ các thủ pháp nghệ thuật mà Nàng Thơ hiện ra khi thì kiều diễm, lung linh, khi thì huyền ảo, mê hoặc, thực sự thôi miên người đọc trong nhiều tầng ý nghĩa:

    Giọt sương không cửa không nhà
    Nghe mùa xuân gọi tìm sa tóc mình

                   (Nguyễn Sĩ Đại)

    Em giặt áo bên dòng sông nọ
    Mấy lần thơm lại nắng quê hương

                   (Bế Thành Long)

    Mây lặng nghe triều hóa lũ
    Nước đi tìm lẽ công bằng

                      (Ngô Hà Phương)

    Điếu thuốc ngún dần những hao hơi lầm lũi
    Ngọn nến ngắn dần những hoang tưởng đảo điên

                   (Nguyễn Liên Châu)

          Lời cho không thật ngọt ngào
          Nên câu nói dối lúc nào cũng xanh

                   (Phạm Hồng Oanh)
        
          Ăn khói ăn hương, anh để dành bơ gạo
          Chống con thuyền giáp hạt giữa trần gian

                            (Hoàng Đình Quang)

          Bởi không biết sống nên không biết chêt
          Nửa thế kỷ bị lưu đày trong cõi tung hô

                             (Phùng Cung)

          Thôi em chuyển bệnh sang ta
          Để ta cảm hết khỏi ngà ngật em
          Để em má đỏ môi mềm
          Mắt trong veo, mái tóc huyền chấm vai
          Ta về lấy bệnh làm vui
          Nghe trong da thịt có mùi hương em

                             (Từ thế Mộng)


    2/ Thơ - Sự sáo mòn hay giả tạo.

  Thơ là tiếng nói của tình cảm. Vì vậy điều tối kỵ nhất trong thơ là sự giả dối. Tình cảm của tác giả trong văn cảnh đó có thể là thật nhưng không biết diễn tả đành dùng lối nói cũ mòn khiến câu thơ giảm sức thuyết phục.
  Bây giờ ta xét hai cách viết của hai nhà thơ nổi tiếng về cùng một chủ đề là tinh thần lạc quan yêu đời của những chiến sỹ trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước vừa qua của dân tộc.
  Đoạn đầu của bài thơ "Những thi sỹ không làm thơ", nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm Viết:
  "Các anh yêu Tổ quốc đến cháy lòng. Là củ sắn hạt ngô, là bát cháo sẻ nửa húp với nhau trong tầm tọa độ. là đêm trắng trũng sâu tròng mắt đuổi giặc rồi sáng ra cười ha hả trong rừng..."
  Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là những con người lạc quan, yêu đời. Trong những điều kiện vô cùng khó khăn, khốc liêt của chiến trường ngưòi ta vẫn thấy các anh: "Đuổi giặc rồi sáng ra cười ha hả trong rừng". Hình ảnh này  rất "đắt", nó đã hoàn toàn chinh phục được những độc giả khó tính nhất bởi tính chân thực không thể chối cãi.
   Còn Tố Hữu thì viết:

              "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
              Mà lòng phơi phới dậy tương lai"


   Nói "lòng phơi phới dậy tương lai" chỉ là lối nói ước lệ, chung chung, thiếu thuyết phục bởi độc giả không thể cảm thấy cái "phơi phới" như thế nào. Còn như tiếng "cười ha hả" của các chiến sỹ trong thơ Hoàng Nhuận Cầm thì độc giả chẳng những nghe thấy, nhìn thấy mà thậm chí còn hình dung ra được cả vẻ mặt hân hoan của những con người phi thường đang sở hữu chúng.
   Bây giờ thơ giả tạo, sáo mòn quá nhiều. Một tác giả khi mất người thân đã viết:

               "Em ra đi trái tim anh như muốn rụng
                 Đau thắt lòng, đất như sụt dưới chân"


   Độc giả đọc câu thơ này chẳng thể cảm được "trái tim rụng", "đau thắt lòng" cụ thể nó ra sao. Kể cả đến "đất sụt dưới chân" cũng chỉ là cách nói suông, ai cũng có thể nói được, chẳng cần đến nhà thơ.
          Tự Đức xưa vừa là một vị vua, vừa là một nhà thơ. Khi người vợ yêu của mình là Bằng phi mất Ngài đã có một bài thơ đường luật nhan đề “Khóc vợ” thật xúc động, trong đó có hai câu thực như sau:

                                      “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
                                       Xếp tàn y lại để dành hơi”


      Không hề có một từ biểu cảm nào nhưng dẫu ta có thét lên hàng vạn lần câu "trái tim như muốn rụng”, hàng triệu lần câu “đau thắt lòng” cũng chẳng thể thuyết phục bằng 14 âm tiết của hai câu thơ ấy. Vì quá thương vợ mà nhà vua đã làm những việc tưởng như phi lý. Ngài tưởng đập vỡ gương soi là tìm thấy bóng, xếp tàn y lại là để dành được hơi của người quá cố. Ngài đã cố hết sức để níu kéo một chút gì đó dẫu chỉ là cái bóng, làn hơi. Câu thơ vừa thể hiện sự yêu thương dào dạt, vừa thể hiện sự xót xa đau đớn đến tột độ. Những câu thơ như thế, nếu nói nhà thơ đã vắt óc, moi tim bày ra trang giấy, quả thực, không là quá đáng.
  Căn bệnh lười suy nghĩ đã giết chết khả năng sáng tạo của người viết. Sau khi đổ hết tâm huyết tìm tòi những từ ngữ hay ho, bay bổng ghép thành vần điệu, tưởng thế là hay. Sự ngộ nhận này đôi khi là nguyên nhân của nhiều phiền toái. Ai khen thì tâm đắc, quý hóa. Ai góp ý cũng chả nghe lại cho rằng họ khinh mình, xảy ra hiểu lầm, ảnh hưởng tới tình cảm.
  Vậy thế nào là lối nói mòn cũ? Tôi xin tạm định nghĩa như sau: Đó là lối nói người ta đã dùng hoặc lạm dụng những mỹ từ đã có sẵn.   Những tác giả viết theo kiểu này, cái tình của họ có thể là thật nhưng cũng rất có thể là giả. Thật,  bởi vì trình độ viết có hạn đành chấp nhận dùng lại những cách nói đã có sẵn. Gỉa vì tình của người viết chưa chắc đã đến mức độ ấy nhưng họ giỏi sắp những mĩ từ đã có sẵn thành vần điệu của thơ. Tôi xin dẫn chứng một thực tế là hiện nay người ta bán ngoài chợ nhiều câu đối ca ngợi công đức tổ tiên, cha mẹ… được rất đông người mua về treo trước ban thờ, chẳng hạn như câu: “Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ - Mây trời lồng lộng chẳng phủ kín công cha”. Đây là câu đã có sẵn. Nếu ta cạn nghĩ, cứ thấy ai treo đôi câu đối ấy trong nhà đều coi họ là những người thương cha mẹ thật lòng thì quả là một sai lầm. Một đứa con bất hiếu vẫn có thể bỏ ra vài trăm ngàn để mua đôi câu đối ấy. Khi làm thơ nói về chữ hiếu cũng vậy, vớ được cái kho ngôn từ sẵn có chúng ta thường tha hồ mà vơ vao. Nào là “tảo tần khuya sớm”, nào là “chắt chiu dành dụm”, nào là “nhân từ”, rồi “biển cả”, “nước trong nguồn” v.v… toàn những điều mà người đọc đã biết tỏng từ lâu. Tuy nhiên ai cũng thương cha mẹ mình thật lòng và đều muốn dành cho các đấng sinh thành những từ ngữ hay nhất trên đời để ca ngợi nhưng lại không hiểu rằng nếu làm thơ như thế chưa đủ để thuyết phục người đọc. Thành thử đọc hàng trăm bài nhưng chúng cứ na ná như nhau, khiến ta có cảm giác nhàm chán. Rất ít người tìm được cách thể hiện riêng, gây ấn tượng sâu sắc như những câu thơ của nhà thơ Vương Trọng sau đây:  
      “ Đã có lần con khóc giữa chiêm bao/ Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó/ Đồng sau lụt, bờ đê sạt lở/ Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn/ Anh em con nhịn đói suốt ngày tròn/ Trong chạng vạng, ngồi co ro bậu cửa/ Có gì nấu đâu mà nhóm lửa/ Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về” (khóc giữa chiêm bao).
   Tuy cùng một chủ đề về mẹ nhưng hình ảnh người mẹ ở đây là một bà mẹ thực, cúa riêng tác giả. Người không thương mẹ thật không thể viết được như thế.


    3/ Thế nào là thơ và đạo thơ?

   *Thơ
   Thường thì một bài thơ dài không phải câu nào cũng là thơ. Nhưng ngược lại cả một bài thơ mà lại chả có một câu đủ tiêu chuẩn được gọi là thơ thì không được. Một thí dụ:
   "Cây dừa cao tỏa nhiều tàu / Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng"
                    (Cây dừa - Trần Đăng Khoa)
  Trên đây là một câu thơ gồm có một câu lục và một câu bát.
  Câu lục "Cây dừa cao tỏa nhiều tàu" chưa phải là thơ. Đây là một câu nói bình thường ai cũng có thể nói. Đến câu bát "Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng" cây dừa mới vút lên thành thơ. Bởi sau tám âm tiết của câu thơ ta có thể ra suy ít nhất hai tầng ý nghĩa nữa:
  a/ Cây dừa rất đẹp, mang tâm hồn của con người
  b/ Tình cảm của tác giả đối với cây dừa, với thiên nhiên.


    * Thế nào là thơ đạo.
    Ai cũng biết đạo văn là lấy thơ, văn của người khác làm thơ, văn của mình. (Ở bài viết này tôi chỉ đề cập đến thơ nên tôi dùng khái niệm "thơ đạo" cho tiện.) Thế nhưng nhiều người có những câu chưa phải là thơ lại giống của một người đã viết trước vẫn bị quy là thơ đạo.
  Ví dụ trong ba trường hợp sau:
   1- Có người viết:
       "Một đời dừa chẳng âu sầu / Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng"
  Xét trường hợp này tuy câu lục khác hoàn toàn nhưng câu bát là của Trần Đăng Khoa. Đúng là thơ đạo!
   2- Cũng có người viết:
   "Chờ ai, dừa đứng bên cầu / Dang tay ôm mối âu sầu cô đơn"
  Xét trường hợp trên tác giả ví von tàu dừa như cánh tay. Giống của Trần Đăng Khoa. Cũng là thơ đạo!
   3- Lại có người viết:
   "Cây dừa cao tỏa nhiều tàu /  Soi gương nước biếc bên cầu lung linh".  
  Xét trường hợp thứ ba thấy tuy câu lục hoàn toàn giống của Trần Đăng Khoa nhưng ở câu bát hình ảnh cây dừa khác hẳn. Ai dám bảo là thơ đạo? Câu lục có phải là thơ quái đâu mà bảo là thơ đạo?
   Hàng ngày có hàng ngàn nhà thơ, viết ra hàng trăm câu, hàng trăm bài thì sự trùng lặp trong một số câu nào đó là điều khó tránh khỏi. Chứ chưa nói gì trong một tháng, một năm có hàng chục ngàn bài thơ mới ra đời mà kho từ vựng của mỗi quốc gia lại hầu như không sinh thêm. Độc giả khi phán xét xem người viết sau có đạo của người viết trước không phải xem câu ấy có là thơ hay chưa cái đã.
   Nếu lỡ có các câu thơ (đúng nghĩa là thơ) giống nhau của hai người, trước khi kết luận là ai đạo của ai thì cũng phải bình tĩnh xem xét kỹ trên nhiều bình diện. (điều này tôi không bình luận)
   Nếu các câu chưa là thơ mà đã bị "đánh cắp" thì hơi đâu mà tố nhau cho mệt. Thiết nghĩ nếu các nhà thơ chỉ làm văn vần, ca vè thì chẳng cần phải động não mấy, một ngày mỗi người cũng viết được hàng tá bài "thơ". Gỉa dụ có người đánh cắp cái loại "thơ" ấy thì còn mừng là đằng khác!
   Vừa qua trên các trang mạng rộ lên chuyện tố cáo nhau đạo thơ. Tôi thấy nhiều trường hợp đúng nhưng cũng có không ít trường hợp oan sai do người tố cáo chưa hiểu được đâu là câu thơ, đâu là câu chưa phải thơ.
   Trong truyện Kiều cụ Nguyễn Du dùng rất nhiều các câu tục ngữ, thành ngữ xen vào trong các câu thơ mà chẳng để trong ngoặc đơn ngoặc kép gì, ai dám bảo thơ của cụ là thơ đạo?


 
 

   4/ Văn hóa ứng xử trên cõi ảo.

   Từ ngày có in tơ nét loài người có thêm cơ hội giao lưu với nhau trên cõi ảo. Vì là ảo, chẳng ai phạt vạ ai được nên người ta dễ thể hiện hết bản chất của mỗi người. Cách ứng xử tốt giữa người với người trên cõi ảo cũng là một nét đẹp văn hóa mà chúng ta cần phát huy.
   "Con người thế nào, chà rào thế vậy".
    Khi bật máy mở mạng ta thường thấy những câu cảm ơn, xin lỗi... Những câu văn, bài thơ hay, những lời góp ý chân thành... hẳn phải là của những người có tâm có đức, ta đáng phải nể trọng.
   Ngược lại cũng có những người phát ngôn bạt mạng, những lời thiếu tế nhị. Họ nhằm vào những sơ suất của người khác để công kích, bôi nhọ. Thậm chí còn cố tình suy diễn máy móc để chụp mũ, quy kết phục vụ cho dã tâm của họ.  Đó là những biểu hiện của tính ích kỷ, nhỏ nhen của một số người hay đố kỵ, ghét ghen. Khi thấy người khác có lỗi thì tìm mọi cách nói xấu thậm chí là thóa mạ, lăng nhục, xúc phạm nhau. Họ không ngờ rằng chính họ đang hạ thấp họ.  Cách tốt nhất để mọi người tôn trọng mình trước tiên là mình phải biết tôn trọng người khác.
    Những người "ném đất giấu tay" ngoài đời thực cũng biết việc làm của mình là xấu nên ở cõi ảo họ thường không công khai danh tính.
  Tôi mong rằng dù đến với nhau trên cõi ảo hay cõi thực mọi người đừng để cho những dòng chữ hoặc lời nói của mình bêu riếu chính mình trước bàn dân thiên hạ.
  Tiện đây tôi xin gửi tới cư dân mạng mấy câu:
 

 
Trần gian thiếu đất khóc cười
Để giờ cõi ảo cuộc người tỉnh say
Gian manh phô kín mặt ngày
Kẻ đeo mặt nạ, người bày chân dung
Bao nhiêu rác rưởi bần cùng
Khoác com-lê cũng trùng trùng hiện ra
I-meo lột xác con ma
Ranh khôn xoay úm ba la chín chiều
Khéo ngoan lọc thứ mà yêu
Ngẫm xem đốt mã bao nhiêu mặt người

Trần gian chật đất khóc cười
Vào In-tơ-net xin mời tự nhiên.


Non Côi ngày 7-11-2014


Trần Kế Hoàn
(Hội VHNT Nam Định)

Trên phần phản hồi, có người nêu bài thơ" Sóng" của Tế Hanh, có câu mở" Biển một bên em một bên" và sau này Trần Đăng Khoa với "chút thơ tình người lính biển" nổi tiếng là 1 trong 5 bài thơ hay nhất về biển đảo có câu: Biển một bên và em một bên"... Có thông tin Trần Đăng Khoa đã xin lỗi trên báo!

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

NHÀ VĂN PHẠM VIẾT ĐÀO TÁI XUẤT

.
Rất mừng ! Anh Phạm Viết Đào tái xuất! 
Theo trang Tễu-Blog.....

Hôm nay là ngày 1/11/2014, chiểu theo lịch âm là ngày 9/9 năm Giáp Ngọ, từ sáng đến tối tôi chờ xem trời Hà Nội có đổ một hạt mưa nào không mà không thấy, điềm trời báo thêm một vụ mùa thất bát chăng ??? bởi ca dao xưa cha ông ta có câu:

Mồng 9 tháng 9 có mưa
Cha con sắm sửa cày bừa làm ăn
Mồng 9 tháng 9 không mưa
Cha con sắm sửa vác cưa lên ngàn ?

 
Mình không là nông phu nhưng tự nhận là kẻ "trồng vườn chữ nghĩa" trên cánh đồng mạng, thời gian qua đã phải chịu một trận "mưa dập, gió vùi" khiến cho khu vườn của mình thì tơi tả, tan nát, huỷ diệt...Chủ nhân- kẻ trồng "vườn" trên mạng- blogger Phạm Viết Đào, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam đã bị cơ quan Công an Hà Nội bắt giữ khẩn cấp, khám xét nhà ở chiều ngày 13/6/2013; Sau khi bị khám xét, thu giữ 2 máy tính, 01 điện thoại, 01 máy ảnh và 2 cuốn sổ tay,Cơ qua An ninh Điều tra Hà Nội (PC 92 ) tôi bị đưa về trụ sở của cơ quan này tại Hà Đông... Theo Điều 258 của Bộ Luật Hình sự, cơ quan An ninh Điều tra công an Hà Nội ( PC 92 ) đã điều tra, sau đó đưa tôi ra xét xử qua 2 cấp: sơ thẩm và phúc thẩm; Toà đã tuyên án tôi phải chịu mức án 15 tháng tù; sau 15 tháng giam giữ và cải tạo tại 2 nhà giam của ngành công an, tôi được trả lại tự do ngày 13/9/2014…
 


Như đã có lần lên tiếng với một cơ quan báo chí nước ngoài sau khi ra tù: tôi chưa có ý định lập lập lại blog để tiếp tục tham gia bàn luận về chuyện Thế sự, chưa muốn bắt tay trở lại cái nghiệp trồng "vườn" trên mạng; một công việc mà tôi yêu thích và cũng nhờ công việc này mà tôi có thêm rất nhiều bạn bè thân thiết khắp mọi nơi; vì lý do sức khoẻ và một và một vài lý do khác, tôi tạm dừng việc lên mạng viết blog bàn chuyện thế sự …

Qua lần tù này, bị sụt giảm mất 10 kg, tôi thật vô cùng thấm thía công ơn dưỡng dục sinh thành của bố, mẹ đã cho tôi một sinh thể chịu đựng, vượt qua được những thử thách khắc nghiệt, chưa từng phải chịu đựng như quãng thời gian 15 tháng trong tù vừa qua .

Hiện nay, hàng ngày tôi đang tìm cách ghi chép lại những gì mình chứng kiến, cảm nhận trong suốt thời gian 15 tháng ở trong tù. Giống như một cầu thủ bóng đá lâu ngày bị cách ly sân cỏ, buộc phải tìm cách phục hồi lại “ cảm giác bóng”-sinh khí, sinh lực cho ngòi bút…Mỗi ngày tôi cố gắng viết lách được hơn nửa tiếng đồng hồ; tôi dự định sẽ tập trung thời gian, sức lực để hồi nhớ, ghi chép lại tất cả những gì mà tôi đã trải nghiệm trong 15 tháng tù vừa qua, chắc công việc này cũng phải mất khá nhiều thời gian, sức lực…

Để tiếp thêm "dưỡng khí" cho việc viết lách, tôi tạo lập lại blog vì tự thấy mình như kẻ nông phu mặc dù thấy trời đất chưa dung cho việc sắm sửa "cày bừa" nhưng thôi thì cũng phải tìm lấy "cái cưa cái đục", không nhẽ ngồi không mà " trông trời trông đất, trông mây ???"; phải tự tìm cái để mà giao lưu, trao đổi với bạn bè cư dân mạng...

Điều trước tiên blogger Phạm Viết Đào xin có lời chào, trân trọng cảm ơn tới các blogger trong thời gian qua đã dành nhiều thời gian, tìm cảm quan tâm, động viên, thăm hỏi tôi đang khi viết blog, trong khi ở tù và sau khi ra tù…

Thứ hai, nhân việc tái xuất hiện này, tôi xin được thưa lại với quý vị xa gần mấy điều sau đây mà tôi đang cần sự hỗ trợ:

1/ Tôi quyết định sao chụp đưa lên blog văn bản Kết luận Điều tra của Công an Tp Hà Nội, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội; Bản án phúc thẩm của Toà án tối cao tại Hà Nội đã kết tội, buộc tội và tuyên án tôi để quý vị, bà con cư dân mạng chính thức được đọc những văn bản kết tội tôi; nhiều vị đã đến thăm tôi, hỏi qua điện thoại nhưng tôi chưa có điều kiện giãi bày vì về mặt danh chính vụ án của tôi toà xét xử công khai, các văn bản kết luận điều tra, cáo trạng và bản án đều là những văn bản công khai...

2/ Tôi sẽ thông tin vắn tắt, sơ bộ một số sự việc đáng nhớ đối với tôi trong thời gian từ 13/6/2013 tới ngày 13/9/2014;

3/Vắn tắt một số ý kiến mà tôi đã trình bày khi làm việc với các cơ quan pháp luật Việt Nam nhằm chứng minh mình không phạm tội hình sự ?!
4/ Nhân dịp này tôi xin có lời đề nghị với quý vị xa gần:

-Từ 2009 tới này, tôi đã lập 4 blog nhưng tất cả đều đã bị đánh phá, huỷ hoại; Vừa qua khi khám nhà, tôi đã bị thu giữ máy tính nên toàn bộ dữ liệu trên máy của tôi đã bị huỷ hoại hoàn toàn…Trước toà, tôi đã đề nghị Toà cho tôi được copy lại những phần tư liệu cá nhân không liên quan tới vụ án nhưng đã không được Toà cho phép…

Do vậy mà 4 blog mà tôi đã lập, hiện tôi đã bị mất trắng, " nhà cửa, ruộng vườn " tan nát, trong đó đáng tiếc có nhiều bản dịch văn học Romania chưa công bố…

Trong 4 blog có các loạt bài theo các chủ đề đáng chú ý sau đây mà tôi mong được sưu tập lại:

-Blog Phạm Viết Đào 1: những bài viết của tôi tập trung phản biện dự án bauxite Tây Nguyên;

-Blog Phạm Viết Đào 2: Chủ đề chính tập trung những bài viết phản biện Dự án: định vay 56 tỷ USD của Trung Quốc để xây dựng tuyến đường sắt cao tốc bắc-nam;

-Blog Phạm Viết Đào 3 và 4 là những loạt bài viết và tư liệu thu thập về mặt trận Vị Xuyên-Hà Giang giai đoạn 1981-1988;

Tôi biết, nhiều bài viết của tôi đã được một số blogger đưa lại hoặc sưu tập; Quý vị nào hiện còn lưu giữ được các bài viết của tôi, rất mong gửi cho tôi xin lại theo địa chỉ email đề ở góc phải blog để giúp tôi khôi phục lại phần tư liệu cá nhân...

Vậy xin có vài lời thưa cùng quý vị và xin gửi tới quý vị xa gần những lời cảm tạ chân thành, trân trọng !

 Mong tiếp tục nhận được sự động viên, chia sẻ của quý vị và bè bạn xa gần !

Địa chỉ truy cập blog: NVPhamvietdao.blogspot.com
Email liên lạc: langdong40@gmail.com

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

THU SA PA







                                                     ( Dưới chân Lin ga" Độc trụ kình phong")
Cứ ngỡ cuối Thu
                     vàng sắc lá
Xanh trầm ngâm thông đón gió lưng trời
Bên ai ta ước đừng lớn nữa
Em mở lòng tay
                      mây trắng bơi...

Chợ tình đêm khắc khoải khúc đàn môi
(kẻ ấm tổ thương chim lẻ bạn)
Ngủ sao được
                     hương Thu quen mà lạ
Cứ thầm thì xưng tội ở tim tôi
2/11/2014

                                       ( "Sân mây" trên đỉnh Hàm rồng, thị trấn Sa Pa)


Thứ Bảy, 18 tháng 10, 2014

MÁCH CÓ CHỨNG...!

Vâng nó đây ạ!
Hãi hùng ...ma tươi
Rừng ma ngày ấy, bây giờ... trọc lốc rồi, chẳng dọa được ai


Gặp lại anh Cứ A Chơ




Năm 1998 , mình và Sơn được cán bộ chủ chốt của xã Chiềng Ân ( 18 người) mời cơm tại nhà anh. Thực phẩm chính là 1 con lợn 5,4 kg nhưng đã có em.( Nghĩa là nó nó là lứa trước)
Bây giờ...
70 tuổi, tóc còn đen nhưng nhức, tươi cười bên lều nương bảo mình: Ai thiếu gì, xin thì mình cho, chứ mình không thiếu gì!
Hạnh phúc thế. Mới biết, biết đủ là đủ
Ngày ấy, anh kể cho mình chuyện bí mật....
Về các đời bí thư trước anh. ( Anh là và hưởng lương hiệu trưởng, nhưng kiêm bí thư đảng ủy)
trong đó, ấn tượng nhất.
Vâng!
Trong truyện thì: 
Di chủ tịch xã phi ngựa đêm, ào lên như gió lốc
Đùa trêu với cả ma nhà
Quan niệm, chết là sướng
Hồn đã về Giàng thì xác về với đất ngay thôi!







Thực thì hồi ấy ông làm bí thư ( Nghỉ hưu năm 1981)
Giờ tuổi 88 vui tươi
Lương tháng hơn 1 triệu
Ngày ngày đôi chén rượu






Ngất ngây... gặp được người hiền!










A

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

GIÓ TỪ NƠI RỪNG THẲM ( Tiếp theo)

                   Di vốn chả phải tay vừa, mồm sắc như dao, và ngọt như mía nướng từ bé. Thuở lính, một đêm phục gần đường biên, bọn Di vồ thằng thám báo Tầu, tống bao vác về chốt, cho ăn uống bình đẳng như chủ, nghĩa là cũng gạo sấy chia phần, nước lã dè xẻn, 2 ngày sau thả. Chẳng biết Di ba hoa xích đế thế nào với nó mà từ đấy cái chốt phía bên kia toàn bắn cầm canh lên trời. Dần dà theo nhau loang ra suốt một dải đường biên. Sự việc được báo cáo lên trên. Kết quả, thiếu úy Di xuất ngũ, may không ghi lý lịch, nhưng việc đấu pháo và bắn tỉa nhau đã dứt hẳn, rồi hòa bình, rồi hảo hảo, anh em như bây giờ. Hơn năm nay lên làm chủ tịch xã, triển khai bao nhiêu công tác xuống bản, lên huyện đâu ra đấy, có khi nào lúng túng, vậy mà lúc này, Di thấy mình đuối sức, rối bời bởi cái tập tục tưởng chừng rành rẽ, truyền đời, lại ẩn chứa cả sự bất cập, nguy hại đến tính mạng làm ngộp thở. Anh vò đầu, bức bối quá. Giá mà được ngâm cái đầu xuống âu nước thác Tia ngầu bọt trắng, chắc sẽ khôn ra. Mình phải quyết! Di khẽ thốt lên, tay nắm chặt hệt như khi băng ra, tay bo với thằng Tầu khự hồi trên chốt. 

                     Những người đàn ông Mông bản Xím Vàn ít khi ngồi với nhau trầm ngâm mà không rượu, không thuốc phiện, như hôm nay, bên cột chính nhà trưởng tộc họ Giàng ai nấy đều khép nép, chéo tay che hờ bụng. Họ đang  lo nghĩ đến giàng, đến tổ tiên xa thẳm, thấy mình đang mang một trọng trách lớn lao. Ai cũng lờ mờ thấy cái lý ấy đúng, sẽ rất đúng nhưng ai cũng sợ. Cái sợ mơ hồ truyền kiếp, chưa nói ra mồm đã thấy run ở trong bụng. Lo cho bản thân mình, con cháu mình, cả họ tộc, thậm chí cả vùng sẽ bị tai ương nếu không theo lời dở mủ.
                  Lão Dở mủ cũng ngồi đó, im như pho tượng đá, nhưng lòng rối bời như gió quẩn hang sâu. Là sợi dây liên lạc, nói đúng là sang tai, có lúc từ tầng trời của các đấng thiên thần phiêu diêu thánh thiện, có khi là tầng âm của ma quỷ dữ dằn truyền cho tầng người ở giữa, ngồi trước mặt lão đây đang run run chờ đợi. Dở mủ biết lúc nào làm đám người ấy sướng cuồng lên, khi nào thì an ủi kẻo họ nhũn oặt như lá non bị lửa liếm. Và cả khi nào cần phải dọa cho nó vãi… linh hồn ra nữa chứ. Nhưng hôm nay, lão ngại quá. Lão làm sao biết hết vì lẽ gì ngày ấy xấu tốt để giảng giải? Đời trước bí mật truyền lời, nhớ trong đầu, khắc tính, không bao giờ sai. Giàng cho ai làm, người đó khắc được làm. Giàng không cho làm, thì có học thì cũng tối tăm như hang sâu lắm ngách, không biết lối ra. Người Mông mình làm gì có chữ để viết thành văn tự, mà bảo rằng nhỡ lão nhầm. Nhầm sao được. Thề có Giàng, lão không ác lòng. Lão chỉ muốn tìm ngày thật tốt tức ngày …( ấy) để cho ma trưởng tộc ra khỏi nhà. Ngô lúa sẽ chạy vào nhà nhiều như nước thác Tia. Lợn dê sẽ đầy chuồng, gà vịt sinh sôi đầy sân. Cả Sùng chả sướng điên cười như ma làm, sao hôm nay…, xem nào- Ma mới được 5 ngày mà mấy đứa con lại nài nỉ lão xem lại?  Không đâu, nhỡ thần linh …
           - Các ma chưa vừa lòng thì dùng lễ lạt để cầu xin. Ta cứ dốc hết lòng thành kính, để họ phải thương xót con cháu chứ. Khi họ đồng ý, họ sẽ giữ lời. Ma người Mông cũng khí phách như trai Mông chứ, không quấy phá chúng ta đâu. Ông xin đi! Di nói chậm rãi nhưng tha thiết dẻo tựa hồ như nhựa bẫy dính chân chim.
              -Đúng rồi! Đúng rồi! Làm lễ xin đi dở mủ! Mọi người hồ hởi hùa theo.
                           Lão sợ thật sự. Cái khăn cáu bẩn của lão khi lau mặt, lúc lau tay đã râm rấp ướt. Lão cứ xuỵt xuỵt, e hèm luôn. Lời cúng ở trong đầu sao không trôi chảy xuống mồm liến thoáng như mọi đám khác mà cứ ngắc ngứ, giật cục? Bàn tay lóng ngóng tung Sinh tờ,(6)  song lại luống cuống hứng nghiêng mâm để một thẻ tre rơi ra ngoài đánh cạch. Mặt lão càng tái mét.
              -Ồ! Các ma chưa thấy trong cái phong bì của vợ chồng Mỷ có gì, nhiều hay ít ấy mà ? Bóc ra đi, trình cả lên đây! Giữa lúc cả đám đàn ông nghển cổ ra ngó, rồi vội rụt cả lại, sợ hãi nhìn nhau, thì Di đã đứng lên,  pha trò rồi khoát tay cười cợt:
              - Lần sau con cháu chia phong bì cho các ma nhớ phải bóc ra nhá. Nhỡ chỉ có vỏ không là giận đấy, phạt đấy! Thế! Tôi cũng xin dâng thêm nữa đây. Tiền công tác chính phủ cho nhiều thì cũng phải chia nhiều chứ! Ma người già cũng hay dỗi như trẻ con ấy mà. Vừa ý là vui ngay thôi! Ông làm lại đi! Xin lại đi…
                  Lại cái kiểu nói ngọt xớt, kiến trong lỗ cũng phải bò ra của Di, làm ai cũng vui lây.- Ừ phải rồi! Đúng quá rồi. Xin lại ngay đi chứ!
*   *   *
              Treo trống lên, đội nhạc lễ dâng lên bài khèn tắt thở nghe xao xuyến quá. Bởi đã qua ma buồng, ma cửa, ma cột chính,  rồi ma bếp lò …  đủ cả rồi. 7 ma đồng ý hết rồi. Vui quá. Hồn tộc trưởng đã về Giàng, thì xác tộc trưởng phải đưa về đất ngay thôi. Thầy mo lại lễ đuổi ma, song lời cúng đã thanh thoát như thác Tia tuôn ào ạt. Tiếng trống, tiếng tù và,  tiếng khèn đuổi giặc vang lên náo nhiệt hòa lẫn tiếng đập cành đào, cành mận roàn roạt xuống đất. Đoàn người rầm rập chạy quanh nhà. Di đứng dạng chân, giương súng lên, thi thoảng đoành một phát, như thấy mọi cái vướng víu vô hình vỡ tan, cuốn hết lên trời theo khói súng.
                                                           Quảng Bá, 9/2014

 

(1) :Hát xin phép tổ chức tang lễ
((2) :Thầy mo
(3) :Giá quàn người chết
(4) :Bồ mây đan đựng ngô, thóc khoảng 20kg
(5) :Lễ giao vật cho người chết
(6) :2 thẻ tre để xin âm dương 

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

MA TƯƠI RỪNG THẲM


     Năm 1988,  từ quê lên thăm Vinh, em ruột  mới vào coi kho lương thực bản Tả ( Chiềng Hoa) không gặp, mình theo cô giáo Lợi về điểm trường bản Áng chơi, hôm sau mới về lại chỗ Vinh, thì được biết bọn các chú ấy hôm qua lên Mèo, chiều muộn mới về.
Vinh chỉ lên dãy núi cao mờ xa có vầng mây trắng lởn vởn:  Một cảm giác xa ngái ...
Tối hôm ấy, mình được bọn các chú ấy " cho vào đời" bằng 2 pi thuốc phiện. ( Hồi ấy, thuốc phiện còn được khuyến khích trồng để bán cho dược phẩm, trừ nghĩa vụ thuế nông nghiệp)  Lậy giời đất!  May sao chỉ thấy thơm, không thấy ngon gì cả, chứ không thì khéo đã bập...!!!
    ......
    Năm 1998  cùng Sơn Cơ khí đi bộ xuyên rừng 3 xã vùng cao Mường La:  Chiềng ( Muôn, Ân , Công, ) để triển khai  kế hoạch thi công các nhà lớp học lắp ghép theo chương trình 135 CP, để lại trong mình sự rung cảm rất xót xa về Cuộc sống khắc nghiệt nơi rừng sâu núi thẳm...
  Mãi gần đây lại nghe nói đến họ, nhưng với tâm thế khác.
 Thôi cứ viết, dưới dạng Truyện ký miễn là lòng mình hướng thiện
 Đục trong gì, xin các bạn cứ thẳng lòng chỉ bảo

           GIÓ VỀ NƠI RỪNG THẲM
          Pàng!
          Tiếng súng nổ vang, đập vào bốn bề vách núi, loang qua rừng cây đang bị màn sương đêm mờ đục bao phủ, dội lại ..àng! ..àng!!! Ba lần như thế khiến cả bản Xím Vàn đương chìm trong giấc ngủ, vội lồm cồm thức dậy. Lác đác ánh lửa từ các nẻo, tiếng chó sủa lẫn tiếng ho khúng khắng, rồi chập dần vào nhau như suối lửa sáng rực, cùng tiếng nói cười râm ran, ùn ùn kéo về nhà tộc trưởng Giàng Sinh Páo.
Họ chờ đợi thời khắc này lâu rồi, từ khi mồm ông Páo không muốn ăn cơm, không thèm uống rượu mà cái bụng cứ no, ngày một trướng to lên. Thầy mo cúng suốt ngày mệt, ông xua tay bảo thôi, về. Nhưng phải đến hôm kia, từ nhà Vàng A Tếnh rỉ tai nhau truyền cái tin sắp có đám ma to. Nhà Tếnh nuôi quả trống mấy đời nay, thiêng lắm. Hễ quanh vùng chuẩn bị có người chết là trống tự dưng kêu, dù chẳng ai dám động vào. Tộc trưởng Páo muốn tiếng trống nhà Tếnh đưa mình về với tổ tiên. Đêm qua ông nằm nghiêng nặng nhọc cố hút một điếu, chiêu hớp nước nóng, hực một tiếng rồi lăn ra, đi luôn.
Mỗi người mỗi việc, gì chứ chuyện tang ma thì đàn ông Mông ai cũng thạo, chỉ cần ông trưởng ma cắt đặt, chẳng phải hỏi lại. Nhưng giờ thì vẫn phải chờ một người. Nó kìa! Tít dưới lưng thung, thấp thoáng một chấm lửa đỏ. Đúng nó rồi, vẫn hay phi ngựa đêm, tay ghì cương, tay giơ đuốc ào lên như gió lốc. Đấy là Di con trai thứ hai của ông Páo, trước trưởng công an xã giờ lên chủ tịch, đi họp huyện mấy hôm, may nay về kịp.
 Nể và sợ Di việc gì thì việc, chứ việc này, Di là con cháu, cứ lệ cũ theo thôi. Ông bà ta vẫn thế mà! Anh ta quơ đôi tay còn lạnh gió sương, tóm lấy tay từng người, tươi cười chào hỏi, rồi ngoan ngoãn ngồi vào vị trí nghe Chí sùng sình (1)để cậu thay mặt bên ngoại cùng gia đình lo liệu tang lễ.
Nhà anh cả thấp bé tối om, nay đông người càng chật chội, không có chỗ xoay dở nữa. Tiếng trống thầy khèn đĩnh đạc vang lên trầm hùng sau khẩu lệnh thì thào mà trang nghiêm của Dơ mủ (2). Mới khấn xong phần  khai kế thôi, mà trán Dơ mủ đã rịn mồ hôi. Ông biết mình đang làm lễ chỉ đường cho ai. Cao vía lắm, léng phéng ăn vạ liền. Cỗ ngựa làm xong ngoài sân. Hai đoạn cây bương mồ côi, gióng với nhau bởi 7 thanh ngang chắc chắn rồi tấm phên mới được đặt lên trên. Mọi người dạt ra nhường lối đưa cỗ ngựa vào, treo sát vách ở gian giữa, ngang tầm ngực. Nỉnh đăng (2)( ngựa) sẽ thồ hồn tộc trưởng Páo về với tổ tiên, về với Giàng và đi còn xa nữa. Ông được tắm lá thơm, mặc quần áo mới. Con cháu xúm xít, cố lách vào gần, thò tay chạm được thi thể đang chuyển từ giường lên ngựa. Từng con lanh mềm mại xổ ra buộc chân tay, vòng qua người quá cố. Mối buộc dấu nhân như thể hiện bốn bề người thân giằng giữ, trong tiếng khèn dìu dặt.
Anh cả nghèo, đã đông con, lại nghiện thuốc phiện nữa, nên trong nhà  lúc này, ngoài chục túm ngô tróc bẹ, treo ngược trên cây sào bên vách bếp để  giống cho sang năm, chỉ còn vài bát gạo đỏ đựng trong thùng gỗ. Ngoài nhà t trống hơ, trống hoác chẳng nuôi con gì. Mấy con gà nhép cũng bị anh giấu trong áo bông, nửa đêm cắp xuống bán phiên chợ trước. Đúng ra thì nhà anh cả cũng có một con bò, nhưng năm kia bà cụ Páo mất, anh đã chia cho bà mang về âm. Anh là cả, được bố mẹ nuôi nhiều, thì phải cho bố mẹ nhiều chứ. Nhưng bây giờ, dù muốn, cũng chẳng có gì. Nói mãi, nhà Dơ mới cho bắt chịu con lợn 6 cân làm lễ, hẹn đầu mùa trả ngay 3 xinh (3) ngô hạt.
- Nghèo thì hèn là phải! Tộc trưởng Páo thường bảo thế- Mày tên là Sùng mà chẳng có tí linh khí gì của con gấu cả. Vậy nên, chết đến chân rồi mà tộc trưởng vẫn chần chừ chưa nói để cho ai kế vị mình. Sùng muốn lắm, như một lẽ tự nhiên, cha truyền con nối, vài lần gặng, nhưng ông chỉ lắc đầu.
Tiếng ồ ồ rộ lên, cả tiếng xuýt xoa, thán phục khi vợ con anh Di mang đồ lễ đến để chia cho bố. Một bộ quần áo đẹp được kính cẩn chuyền tay dâng lên, cả một đôi giầy bút-tuyn đen xin xỉn, cả xã này chưa thấy ai được xỏ chân. Đấy là kỷ niệm của thiếu úy quân báo khi rời lính biếu bố, nhưng ông bảo mang về giữ hộ, kẻo cả Sùng cuỗm đi cắm mất(!). Dở mủ vừa lẩm nhẩm đọc bài cúng treo sáng đù, vừa nhẩn nha quấn sợi chỉ lanh trắng quanh bàn tay ông Páo, ròng ra ngoài quấn vào chân con bò lông vàng hung đứng trước nhà. Chắc nó biết sắp được hóa kiếp hay sao mà cứ dụi dụi má vào người thằng cu con nhà Di ... Đoạn ông tung đôi thẻ tre lên rồi giơ cái mâm mây đan hứng lấy. Được rồi! Nó mừng nhận rồi! Tiếng ồ ồ lại reo lên, phấn khích, đám đông giãn ra để chủ ma dẫn bò ra ngoài vườn làm thịt.
*     *    *
               Di bỗng tỉnh ngủ, thấy khát, lần đến mấy ống bương nước dựng góc nhà. Hết sạch. Đêm thứ mấy rồi nhỉ? Nặng đầu quá, toàn rượu săm.
              Trong nhà, cả lũ ngả ngốn ngồi, nằm ngủ ngay dưới ninh đăng. Tiếng ề à của người khách hát dặn dò  lúc tròn, lúc méo, lúc sôi, lúc lịm rồi chìm hẳn mặc tiếng khèn còn rồ rồ một lúc lâu nữa. Góc bếp, mấy người nằm co quắp, thì thào như bọn buôn bạc giả, lẫn tiếng rít xeo xéo. Mùi thuốc phiện nồng nồng phảng phất.    
              Đốt điếu thuốc lá, nhìn lên trời sao chi chít, chầm chậm nhả khói. Di thấy tự hào, người Mông có cách truyền tin rất nhanh, nên nhiều anh em, họ hàng  tít trên Mường Lò, Nghĩa Lộ, tận mạn Chiềng Khương, Sông Mã…  đã đi thâu đêm về chia tay bố. Còn ở trong xã, hẳn rồi,  mấy ai không quyến luyến với tộc trường họ Giàng. Thoáng dâng trào niềm kiêu hãnh nữa, ông là bố chủ tịch xã mà, nên huyện cũng phải cho người lên viếng. Vinh dự chứ. Vui chứ. Di bỗng nhìn thấy nhấp nhánh phương trời xa thẳm một ông sao đổi ngôi. Có lẽ linh hồn bố đã gặp tổ tiên? Đã về Trời rồi? Và linh hồn thứ ba đã hóa kiếp đầu thai thành người khác thật ư? Bố vững tin như thế, và suốt cả cuộc đời luôn luôn làm điều tốt lành để mong được như thế. Tự nhiên Di thấy lòng  khoan khoái, nhẹ bẫng đi. Có phải chết là sự mở đầu cho một chu trình kế tiếp, được gặp lại tổ tiên, như lời ca chí sái  thâu đêm qua? Lang thang một đời như con dúi nơi rừng thẳm tìm đến nguồn cội xa xưa. Bao sông, bao suối cuồn cuộn hung dữ qua chân. Bao đám cháy ngùn ngụt lửa đỏ đã qua tay. Tiếng ngựa hý, gươm đao chát chúa, tiếng khóc than não nề. Di như nhìn thấy bố mình, tổ tiên mình đỏ hỏn trong đoàn người bìu díu nhằm phương Nam lê gót.
                Bố vẫn sống, chỉ là trong kiếp khác mà thôi. Di tin thế !
              Có lẽ, trên nỉnh đăng chỉ là cái xác không hồn? Di cũng tin thế !
               Đêm nay giở trời. Không gian đặc quánh mùi hôi thối, tưởng chừng như lấy dao sắt ra được. Ngoài vườn lăn lóc xương xẩu bò dê, lợn gà lẫn với đống lá chuối rách bươm bừa bộn, ruồi nhặng, bâu kín đặc, thấy động ào bay lên, va cả vào mặt Di.
                Không để lâu thêm nữa. Cái suy nghĩ ấy không phải bây giờ mới có trong  đầu Di, chỉ không thể nói, và không biết nói thế nào thôi. Lúc mới xuất ngũ Di về đến bản Chông, thì lão xe ôm vái, không thể leo lên ngược dốc. Cắm cúi cuốc bộ một lúc thì nghe thấy tiếng khèn, tiếng trống, biết là trên bản mình có đám ma, Di càng rảo chân hơn. Nhưng lạ kìa, đám tang đứng yên, mấy người khiêng nỉnh đăng như chôn chân, ba bốn thằng trai dũng mãnh nhảy băng băng qua các bụi cây gai ào xuống dốc như đuổi cướp. Di cắt phương vị chạy thộc lên, đón đường. (Quá thường với lính quân báo) Lúc sau gặp nhau, Di phát kinh với cái đầu lâu bốc mùi khăm khẳm bọn họ vừa nhặt lại. Thì ra, để người chết lâu quá, phần thi thể đã rã rời. Trời mưa, dốc trơn, một người khiêng sảy chân, chới với làm nỉnh đăng bị xóc giẫy lên, chao đảo, thế là đầu người chết văng rơi ra, lăn lông lốc. Cảm giác kinh tởm, pha lẫn tội lỗi ấy đeo bám Di khôn nguôi, thậm chí ngay bây giờ, Dị vẫn rùng mình, sợ cái bụng bố mình trên nỉnh đăng thi thoảng rỏ nước xuống kia, nhỡ vỡ tung ra thì sao?
              -Đúng thế đấy anh ạ! Mỷ em gái, mới cùng chồng từ Trạm Tấu về chiều qua đến ngồi bên tự lúc nào, như đọc được sự lo âu trên khuôn mặt Di, nhỏ nhẹ góp chuyện. Nhỡ ra… nhỡ ra…Dù mới y tá thôi, em cũng hiểu, cả vùng sẽ bị nhiễm bệnh, có người chết luôn, chẳng cần phải ủ bệnh !
              - Ngành y chúng mày nhìn đâu chả thấy vi trùng, với lây nhiễm!
              - Mỷ nói đúng đấy! Chồng Mỷ cũng là chiến hữu của Di thủa trên Hà Giang, là Mông lai, bênh vợ nói chêm vào. Anh còn nhớ hồi trên chốt không? Một thằng vàng da, trướng bụng chết, pháo dập như bổ củi suốt ngày đêm, không đưa xuống được. Sau mình thế nào cả lũ, anh nhớ không?
                  Di rùng mình. Nhớ chứ! Nhớ quá đi chứ! Thảo nào giờ hễ thấy mùi khăn khẳn của xác chết là sống lưng Di buốt dọc.
              - Không nên do dự anh ạ!  Ở quân đội, điều kiện thuốc men như trời như biển mà 4 thằng trai tráng như vâm bị chỉ cứu được mỗi 2 anh em mình.
              - Giờ nếu cả anh, vợ anh, con anh, cả chúng em, cả bản này nhiễm bệnh, ai đưa đi cấp cứu, phương tiện đâu, đi máy bay à? Chờ huyện đi bộ lên được đây thì mọi người đã theo bố cả thể cho vui rôi! Mỷ sốt sắng bồi thêm.
              - Hừ! con Mỷ này được bố yêu quý nhất nhà, biết nhiều chữ nhất nhà mà lại ít hiếu với bố nhất nhà đấy! Gạo có nhiều, rượu thịt chia cho bố còn nhiều thì phải để bố ở nhà lâu nhiều thôi! Cái lý họ ta vẫn thế mà.
              Tưởng như anh cả ngủ, nhưng không, có tý sái phiện, anh tỉnh như sáo, nhanh hơn con sóc, trườn từ góc bếp ra, nấp sau cánh cửa xem anh em chúng nó bàn gì, chia gì, sao tối qua treo sán đù lâu thế, chí sái dặn dò lâu thế  mà có mỗi cái phong bì bé tẹo, dúi vào tay bố, đến đêm anh lần ra xem định  bụng thó đi, không ngờ chủ ma ghi sổ rồi cất hộ từ lúc nào. Đang cáu tiết, thấy vợ chồng Mỷ bàn ngang, anh phải dậy dỗ ngay mới được.
( Còn nữa)
          

Thứ Hai, 6 tháng 10, 2014

VĂN NGHỆ LÀ MẶT TRẬN

Chương mười bảy -ĐÈN CÙ- Trần Đĩnh
Sau Đại hội đảng 1960, tôi về ban văn nghệ của báo,
Như Phong chánh, tôi phó. Lúc ấy nguyên tắc nhân sự
là lão thành cách mạng chánh, trẻ phó.
Chủ nghĩa Lê-nin muôn năm của Trần Bá Đạt ăn khách
quá. Chất nông dân ngả như bỡn theo tư tưởng Mao. Đã có
những tiếng chửi xét lại. Mới ngày nào báo Nhân Dân thường
đăng vài ba trang toàn văn các bài nói của Khroutchev.
Những số báo ấy hết veo. Bài thu hoạch của Trường Chinh về
Đại hội 22 của Đảng cộng sản Liên Xô đăng liền mấy ngày.
Nhưng có một vùng dạ con tăm tối đang âm ỉ thai nghén một
ván bài sấp mặt kinh hồn mà chúng tôi chẳng ai biết. Không
hiểu sao hễ nghe nói đến xét lại là tôi coi như bị ám chỉ rồi
khó chịu. Có lẽ lòng đồng cảm của tôi với Phái Hữu Trung
Quốc cùng số phận thê thảm của họ đã thức dậy. Không ở
Trung Quốc, không thấm thía các luận điểm lẫm liệt của phái
hữu để mở mắt, tôi cũng rất có cơ trở thành một Trần Bá
Đĩnh lật mặt viết các thứ chửi bới xỏ xiên những kẻ thù mới
hôm qua còn là đồng chí thắm thiết.

Khó chịu đến nỗi một hôm làm việc với Trường Chinh, tôi
hỏi anh hai điều. Một, ở ta có xét lại không? Hai, anh đánh giá
Tự Lực Văn Đoàn thế nào.
Anh cười nói: - Ở ta đâu có xét lại.
- Thế Liên Xô? - tôi hỏi luôn.
- Ta và Liên Xô như nhau thì Liên Xô xét lại sao được?
Tôi nghe mừng quá. Thì chính anh viết thu hoạch về Đại
hội 22 của Liên Xô cơ mà. Liên Xô đang trên đường dân chủ
hóa, từ bỏ bạo lực cơ mà, cái điều tôi khát khao sẽ có ở Việt
Nam.
Vậy là Trường Chinh không ở trong cái dạ con âm ỉ tăm
tối trên kia. Và tôi chỉ cần thế. Đâu biết vì không ở trong nó
nên rồi anh phải chịu nó.
Anh khẳng định đóng góp to lớn của Tự Lực Văn Đoàn
vào văn học Việt Nam.” Tôi viết văn được là nhờ ảnh hưởng
của Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng nó ra đời sau thất bại chính trị
của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Yên Bái và đã trở thành cải
lương, rời bỏ chính trị, chỉ hoạt động văn hoá như Nhà Ánh
Sáng và Tự Lực Văn Đoàn.”
Buồn cười, Huy Cận có bài thơ nói đến áo người yêu trên
mắc mà rồi hễ thấy áo của vợ tôi treo đâu là tôi lại nghĩ đến
câu thơ Huy Cận…
Hà Nội đang thưởng thức những” Nhật ký một ngày của
Dionisevitch “của Soljenytsyn, “cây phong lan nhỏ,” “Người
thày đầu tiên” của Aimatov. Tôi không đọc. Ý để bảo với đám
thích Mao biết rằng tôi đâu phải Liên Xô thứ xịn như họ nói.
Nhưng những phim “Số phận con người,” “Khi đàn sếu bay
qua,” “Chín ngày một năm,” “Bài ca người lính” và vở kịch
“Câu chuyện Irkoust” thì tôi phải xem và cho bình trên báo,
mừng cho điện ảnh Liên Xô nhờ Khroutchev đã có bộ mặt mới. Bộ văn hóa tổ chức cả cuộc thi xem phim nào được công chúng yêu thích nhất (tôi đã phải cho thường xuyên đăng động thái hưởng ứng rầm rộ cuộc thi). Nhưng một năm sau, lật một cái rất nhanh, tất cả đều bị phê phán là phản động, xét lại, sợ chiến tranh và hòa bình chủ nghĩa.
            Trông nom việc văn nghệ trên báo Nhân Dân, hay nhận được ý chỉ đạo của Nguyễn Chí Thanh, tôi biết anh chính là người tích cực phất cờ chống luồng gió độc trong văn nghệ và đặc biệt nắm rất vững tình hình văn nghệ Trung Quốc. Thanh có một câu ghê gớm: “kịch 'Câu chuyện Irkoust' là cái chuyện gì mà ngất ngư hết cả lên với nhau thế? À, chuyện một thằng cộng sản mê một con điếm...” Phù Thăng chết lụn bại chỉ vì một câu viết nguyện vọng của con người là hòa bình mà Thanh cho là tuyên truyền sợ chiến tranh!
Những quay phắt lại với hôm qua đã được xem như chiến thắng của chân lý cách mạng. Chỉ một thời gian ngắn, bao nhiêu người phản lại chính bản thân. Tôi bắt đầu nhận ra những bộ mặt xúm lại đẩy cỗ xe Nhất Trí. Người ta tự bào chữa rằng người ta trung thành với cách mạng. Bo ra p, quy xuo ng th ma y la i đươ c coi la đang vươn le n ta m cao ma ca ch mạng cần!
Chuẩn bị đại hội văn nghệ lần thứ hai, Tố Hữu triệu tập vài chục nhà văn, nghệ sĩ và nhà lý luận mở hội thảo dài ngày mấy vấn đề văn nghệ. Họp trù bị với một ít anh em, Tố Hữu nói rất tiên phong: “Gần đây thấy chửi Lukacs nhiều lắm. Nhưng đọc chưa, bẻ được người ta chưa? Chớ nên ỷ mình đa số. Không phải chân lý đều ở đa số đâu. Có khi thiểu số là chân lý...”
Tôi chưa hiểu thâm ý của Tố Hữu: Liên Xô đang đa số trong phe, Mao thiểu số nhưng này, đừng có tưởng đông thì là đúng đấy.
Còn tôi lại thành kiến Bắc Kinh thờ hung thần bạo lực, chuyên giải quyết mọi sự bằng bạo lực, đổ máu. Tôi đâu biết Lê Duẩn đang chuẩn bị rước tư tưởng Mao Trạch Đông lên thành “tư tưởng Lê-nin của thời đại ba dòng thác cách mạng.” Duẩn có suy tôn Mao thay Lê-nin thì Mao mới suy tôn Duẩn thay Hồ Chí Minh.
Một vấn đề được quan tâm: tính người. Có hay không có tính người? Vào thảo luận, đa số ngả về không có tính người mà chỉ có tính giai cấp. Câu nói thường được đưa ra làm nền cho quan điểm này là câu của Marx: con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Căn cứ vào nó sổ tọet luôn tính người. Tô i bức bối nghĩ : Chữ tổng hòa đã hầm bà làng béng hết các giai cấp lại rồi mà còn cứ cãi không có tính người? Nhưng nếu nói ra thì tôi sẽ không chống nổi một đa số áp đảo chỉ chực phe pha n đe chư ng to lo ng trung kie n vơ i mo t ca nha n -Mao - ma ngươ i ta ngơ la ba c nha t ca ch ma ng.
Nguyễn Đức Quỳ, tên thật Đào Đình Huống, thứ trưởng văn hoá, từng làm đại diện của ta ở Thái Lan, nói anh không có lý luận (tuy cùng với Đào Văn Trường vốn là hai cây lý luận của đảng), chỉ nói cái cụ thể. Xem đội tuyển Anh đá với đội tuyển Liên Xô ở Mát - xcơ - va nhưng be n na o đa hay đe u đươ c reo a m le n khen va trơ i mưa th ngươ i xem ta t ca , ba t cha p Lie n Xo hay A ng - lê đều thượng ô hay áo mưa vào. T nh ngươ i kho ng ơ đa y th la ca i t nh g ? Quy nom ve hơi ca u. Sáng ấy Quỳ phát biểu tính người xong, thấy ngứa ngáy, tôi tham luận. Khẳng định tính người. Tính giai cấp và tính người cùng tồn tại. Có lúc tính giai cấp nhiều hơn, có lúc tính người nhiều hơn. Thí dụ thời cộng sản nguyên thủy, tính người là chính chứ làm gì có tính giai cấp? Rồi mai đây khi cộng sản văn minh cũng lại tính người là chính còn tính giai cấp thì tiêu vong. Co đie u to i nha n ma nh la ca n chu y trong khi giai cấp bóc lột đang thống trị thì nó cũng có phần tích cực góp vào sự phát triển tính người, không nên coi giai cấp thống trị chỉ đem lại cái xấu. Ne u kho ng co sư t ch lu y tie m tie n cu a t nh ngươ i qua ca c phương thư c sa n xua t kha c nhau no le, phong k e n, tư ba n thì làm sao có được vượt phá về chất để đến chế độ cộng sản, tính người lại trở thành đơn nhất nhưng
văn minh, tiên tiến hơn tính người nguyên thủy.
Tôi nói xong, chủ tịch hội nghị Đặng Thái Mai đứng lên bắt tay: - Cảm ơn Trần Đĩnh cho tôi hiểu thế nào là continuité historique, - tính liên tục lịch sử.
Anh và tôi một dạo hay chuyện với nhau. Anh ghét Mao tưởng như sẵn sàng nôn oẹ. Tôi đã đưa anh Les questions fondamentales du Marxisme (Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác) của Plekhanov và nói: O ng na y ơ trong Đe nhi Quo c te cu a Berstein, Kaustki ro i bi Lê-nin đa nh ca cu m v chu trương đa u tranh nghi trươ ng đa y, ca c đa ng Xa ho i va Co ng đa ng ơ the giơ i hie n nay thuo c pha he no .
Cầm cuốn “Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác,” anh huých khẽ tôi: - Hay lắm. Cảm ơn, này, Trần Đĩnh cứ đến nhà mình, tha hồ chửi thiên chửi địa. Một sáng tôi đang ở nhà anh để “chửi” thì Xuân Tửu,
chánh văn phòng Hội liên hiệp văn học nghệ thuật đến nói: -Báo cáo của anh đọc trước đại hội văn nghệ, anh Võ Hồng Cương đã xem xong. Anh Cương đề nghị anh thêm vào cho vài câu của Mao Chủ tịch chứ chỉ có Liên Xô thì không ổn. -Được, anh để đấy. M nh đo t đe n t m ca nga y cu ng co ra đươ c
câu nào để mà dẫn đâu.
- Ch nh quye n ra tư no ng su ng ro i, nay lý luận cũng ra từ nòng súng nốt à? - Tôi đùa.
Đặng Thái Mai ngạc nhiên. Tôi nói: - Võ Hồng Cương chẳng phải là bên nhà binh cùng với một tiểu đoàn nhà văn quân đội sang dọn dẹp bên văn nghệ đấy sao. Sau 1954, ta quân sự hóa mặt trận văn hóa văn nghệ cho mạnh the m ho a lư c xung k ch ơ đa y ma ... Rồi có ngày anh giật mình thấy trong tay anh lăm lăm súng đấy.
Đến đây xin quay lại Nguyễn Đức Quỳ. Vốn hoạt động ở ngoài nước, anh am hiểu các vấn đề đối ngoại của đảng. Biết tôi viết tiểu sử Cụ Hồ, anh cho hay 1928, 1929, Nguye n A i Quo c đa đe n Ba ng Co c ro i đi bo sa u tha ng le n Na Kho n va nđo ng ca ch ma ng, sau đo rơ i Tha i. Nguyễn Ái Quốc đi rồi, Việt Kiều lập Đảng cộng sản Thái Lan, số lượng ủy viên Ban chấp hành chia làm ba phần Việt, Trung, Thái đều nhau nhưng Tổng bí thư là Việt Kiều tên Thung, kiểu như Kaysỏn tổng bí thư Lào là con một bưu tá Việt Nam ở Vientiane vậy. (Bạn tôi, Lê Đức Dục họat động ở Thái cùng với Quỳ còn nhớ tên mẹ tổng bí thư Thung là bà Hảo. Nhưng Như Quỳnh, tổng biên tập báo Phụ Nữ lại bảo mạ của Thung là cụ Quỳnh Anh, sau này sống với người con trai là Tài và tôi quen Tài.) Tóm lại với ta, quốc tế nhưng phải Việt thì mới yên tâm, Quỳ nói.
Đảng này liền bị Thái đàn áp, mãi đến 1948, Hà Nội mới được có đại diện ở Thái nhưng công an mật Thái phục ngay ở nhà cạnh trụ sở ta, ngày ngày cho biết ông trêu công khai mày đây. Đầu 1950 Trung Cộng công nhận Việt Nam thì Thái Lan đòi ta rút đại diện. Tớ - Quỳ nói - đi Liên Xô, Hoàng Văn Hoan đi Bắc Kinh, Song Tùng về Hà Nội. Năm 1976, thăm Vũ Lăng ở Làng Báo Chí Thủ Đức xong tôi đến Nguyễn Đức Quỳ. Lu c na y anh mơ i b nh lua n Tha i la nươ c tro ng nha t vua ma m nh la i đi la p co ng sa n đưa anh thơ
- ma la i la thơ An Nam - le n đa đa o đo i la t đo vua ngươ i ta th ngươ i ta pha i de p đi tho i chư . Họ chả lạ việc Việt kiều tổng khởi nghĩa hộ Lào cũng như sau này từ 1960, ta cho quân sang đánh rầm lên ở Lào là để hạ chế độ quốc vương của người ta xuống mà tạo phên giậu bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Thái cho quân sang (danh nghĩa quân đồng minh của Hoa Kỳ - BT) đánh mình cũng là để chặn trước không cho ta
chiếm Cam - pu - chia rồi tẩn sang bên họ. Họ có lập đảng gì ở ta đâu mà sao ta lại lập cộng sản ở họ? Tôi hỏi có phải lập đảng ở Thái Lan là theo chỉ thị của Cụ không thì Quỳ im, mắt chớp chớp, bậm miệng lại. Tôi lại hỏi tổng bí thư Đảng cộng sản Thái Lan là người Việt thì cũng ná như Trần Bình người Hoa làm tổng bí thư đảng cộng sản Mã Lai đấy nhỉ?
Quỳ quay đi. Tôi nghĩ ông bạn ngổn ngang lắm đây.
* * *
Lại trở về với Nghị quyết 9 nhất biên đảo theo Mao, tôi sụp đổ ghê gớm. Thua tan thua nát là một lẽ. Còn nữa là thấy hàng ngũ “ủng hộ chung sống hòa bình” ào ạt quay đi để ôm lấy cây súng dữ quá.
Khoảng 1964, Đặng Thai Mai đăng ở trang nhất báo Văn Nghệ một bài ca ngợi thơ và từ bất hủ của Mao Chủ tịch. Chúng phản ánh những vĩ đại này nọ ở Người. Sách của Plékhanov phải sáu bảy năm sau Nghị quyết 9, cực chẳng đã, tôi mới đến nhà Đặng Thái Mai lấy lại. Đến và về ngay. Anh cũng không giữ để “tha hồ chửi.” Gặp nhau khoảng mươi phút sường sượng.
Phụ trách văn nghệ báo đảng, từ đầu tôi được dặn không đăng bài, đưa tin và nói đến Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, hai nhà văn “có vấn đề tư tưởng.” Nhưng “vấn đề “thế nào thì không nói rõ.
Tôi lỡ lại dan díu với hai anh. Đặc biệt với Chế Lan Viên, chúng tôi có thể nói hàng giờ về các “bố láo” của Mao. Chế chửi Mao quá hay. Tiếc là không thể đưa ra các ví von rất cơ thể học của anh.
Giữa năm 1963, trang văn nghệ của Nhân Dân nhật báo Trung Quốc đăng một bài ca ngợi Chế Lan Viên và tập thơ“Ánh sáng và phù sa.” Tôi liền làm nó thành một mẩu tin đưa lên trang chủ nhật báo Nhân Dân do tôi phụ trách. Te n tuo i Che Lan Vie n the la xua t hie n tre n ba o đa ng, ke va o uy lư c cu a
ma u tin ba o đa ng Trung Quo c. Như Phong, chưa quên Chế nói anh chuyên soi đèn pin vào đít văn nghệ sĩ tiền chiến xem có còn cứt hay không, đã họp ban văn nghệ chất vấn tôi. Như Phong đưa nguyên tắc xuất bản ra. Tôi đưa nguyên tắc “báo đảng Trung Quốc” đối lại. Mo i sư la i xong. Chế hời. Hời viết
thường, không phải Hời viết hoa. (Nhân thể nói người Tây Nguyên gọi người Chàm là Sươn Hơi: Hời.)
Tôi chỉ muốn nhân dịp này bềnh Chế lên, một kiểu lấy gậy Trung Quốc đập lưng Việt Nam. Không nghĩ tại sao đang khét lẹt tinh thần chiến đấu tấn công mà Bắc Kinh lại đi khen tập thơ mủi lòng cho phận con ngừời - Qua đỉnh đau thương, lại đau thương nữa lại đau thương hơn? Ai ở ta đã rỉ tai Trung Quốc hãy mở cái cửa đột phá này chăng?
Rồi Nguyễn Thành Long cho biết Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu vừa làm một bữa chiêu đãi mấy nhà văn nhà thơ Khu 5 trong có Chế Lan Viên (riêng Nguyễn Thành Long cũng ở Khu 5 nhưng không được mời dự). Hai vị nêu rõ nguy cơ chủ nghĩa xét lại làm mất cách mạng, kêu gọi văn nghệ sĩ góp sức cùng với đảng dẹp chủ nghĩa xét lại nếu như còn có tâm huyết đa nh đo đe quo c My , tho ng nha t đa t nươ c, va y anh em ha y
cu ng đa ng le n tha c xuo ng ghe nh tra n na y. Dĩ nhiên Chế cảm động vì đảng coi mình nhiều tâm huyết. Nguyễn Thành Long kể thêm chuyện nhà lý luận văn học H. X. N. khóc hôm ấy.
“Giá sử đảng bảo N. tôi là giáo điều thì N. tôi còn cười được chứ bảo N. tôi là xét lại thì N. tôi xin chết ngay.” Cuối những năm 70, một chiều tôi ngồi ghế đá bờ hồ với Lê Đạt ở trước Bưu điện thì Chế Lan Viên đi tới. Anh quàng vai tôi cười nhoẻn bảo Lê Đạt: - Trần Đĩnh và mình biết nhau từ thuở hàn vi đấy nhá.
Tức là lúc anh không được nói đến trên báo đảng.
Chế đi rồi, tôi bảo Lê Đạt: - Gia Ninh nói hồi ở Bình Trị Thiên, Chế và Gia Ninh thề với nhau không bao giờ vào đảng.
Chế thề bằng chữ dân dã rất mặn mòi. Rồi Chế vào còn Gia Ninh thề nho nhã thì giữ lời.

Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014

CON KHÔN HƠN CHA - NHÀ CÓ PHÚC THẬT KHÔNG?

Nguồn: Nhà văn Ngô Minh
QTXM : Bạn đọc thân mến. Hôm trước QTXM in bài về việc "Con đấu tố cha ( thời mới), chỉ việc Thu Tứ , con trai nhà văn nổi tiếng Võ Phiến có bài "Trường hợp Võ Phiến" mạ sát cha mình in trên báo Văn Nghệ TP HCM. Nay chúng tôi xin giới thiệu  bài viết của nhà văn Nam Dao tìm hiểu nguyên nhân của việc "con giết cha" nay. Mời bạn đọc cùng chia sẻ.

Hoàn cảnh Thu Tứ

Nam Dao



Nhà văn Võ Phiến

Cho đến hôm qua, tôi vẫn chưa dám tin Thu Tứ đã hạ bút viết “Trường hợp Võ Phiến”. Đọc và cảm tưởng văn bản này có vẻ như của đám đánh hôi tên “biệt kích văn hoá” thời “hồ hởi” chống Mỹ cứu nước, tôi điện thoại hỏi một người bạn văn có giao tình với gia đình Võ Phiến. Anh bảo, bài đó nằm tronghttp://gocnhin.net, số 295 của chính Thu Tứ, không phải là Tuyên huấn Tuyên giáo gì, dẫu đăng trên tờ Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh. Tôi lặng người, và hiểu những nhà văn hải ngoại đã dùng những chữ như vô luân, nghịch tử, đấu tố cha… để đánh giá con người và hành động của Thu Tứ. Bạn tôi thở dài: “Bà Võ Phiến chỉ khóc, thật tội nghiệp!”

Có dịp đâu 7, 8 năm trước đi thăm anh với Nguyễn Mộng Giác, tôi giữ hình ảnh một Võ Phiến trung thực, chừng mực, xuề xòa, và rất tinh nhạy trong những cảm nhận văn học. Khi đó, tôi kể được Thu Tứ gửi tặng hai tập sách (nay tôi quên tên), Võ Phiến bảo: “Chắc nó muốn làm quen đó!” và hỏi tôi nghĩ sao về văn Thu Tứ. Dĩ nhiên, tôi im lặng rồi lảng chuyện. Anh tiếp: “Có dịp thì giúp nó!”. Tôi lại im lặng. Văn là của Trời cho, mấy ai giúp được ai! Nhưng hôm nay, nhớ giao tình với Võ Phiến, tôi cố gắng tìm cách hiểu hoàn cảnh Thu Tứ, dẫu chẳng mấy dễ dàng.
Đầu tiên, tôi vào truy lùng những vụ án “giết cha” trong văn học. Trong loại thảm kịch Hy Lạp, có cuốn sách khá nổi tiếng về 12 vụ án loại này. Vụ khá tiếng tăm là vụ Brutus đâm chết Caesar trong Nghị Viện Hy Lạp. Năm 44 trước Công Nguyên, cùng những kẻ đồng loã ở Ides des Mars, Brutus giơ dao thì Caesar ngoảnh lại, la lên “κα σύ, τέκνον”, nghĩa là “Cả mi à, con ta!”. Câu hỏi tức thì, Thu Tứ có phải là Brutus không? Triết gia Plutarque bàn về động cơ của Brutus, kẻ muốn bảo vệ nền Cộng Hoà (Hy Lạp) chống lại sự độc trị của Caesar, cho rằng Brutus là kẻ có lý tưởng, vì nghĩa chung mà hy sinh quyền lợi tư riêng. Thế thì Thu Tứ chắc hẳn khác xa Brutus. Bài viết của anh hà hơi cho một chế độ toàn trị chết dở. Chế độ này thành công chỉ ở điểm làm lùi dân trí, khiến xã hội ngày một vong bản, con người hóa ra vô cảm, kinh tế tụt hậu và lệ thuộc nhưa chưa từng có, biển mất đất mất vào tay ngoại xâm, dân chủ – công bằng – văn minh chỉ là những khẩu hiệu hàng giả sau đến gần 40 năm Giải Phóng và Thống Nhất đất nước… Nếu Thu Tứ có được chút nào thì là cái tên Brutus, người Hy ngày xưa ám chỉ sự ngu muội. Nhưng Thu Tứ – Brutus không chỉ ngu muội. Anh còn vô văn hoá: chính anh thú nhận đã kiểm duyệt và biên tập để gột phần “chống Cộng” khi in hai tác phẩm của Võ Phiến trong nước dưới cái tên Tràng Thiên. Ai viết văn cũng hiểu cái nỗi đau thấy chữ nghĩa mình bị đục đẽo. Trước khi giết, Thu Tứ đã tra tấn và bạo hành chữ nghĩa của kẻ sinh thành ra anh! Và thế là không, trăm lần không, vì như vậy Thu Tứ làm sao cao bằng mắt cá chân Brutus.
Vụ thứ nhì tôi lọc lựa để hiểu hoàn cảnh Thu Tứ là Oedipia. Chàng này thể hiện lời sấm truyền của Sphinx (nửa đàn bà nửa sư tử), phải giết cha và ân ái với mẹ. Sphinx là một con thú trong huyền thoại. Dĩ nhiên Oedipia của huyền thoại không là Thu Tứ, người thế kỷ 21, từng tốt nghiệp CalTech năm 86 và không hành nghề kỹ sư từ 1991 vì không thích mà chuyển qua văn chương bắt chước viết văn như thân sinh mình. Nhưng điều Sigmund Freud gọi là “mặc cảm Oedipia” thì, tôi e, có phần nào giải thích được hoàn cảnh Thu Tứ. Mặc cảm này thể hiện một quá trình dục tính (libidinal) có nhiều giai đoạn, từ khi sinh ra đến lúc thành niên, nảy sinh từ khuynh hướng của giới tính nam (nữ) là chiếm hữu người mẹ (cha); và để đạt được chỉ có phương thức quyết liệt là giết cha (mẹ). Giai đoạn cường điệu nhất là khoảng 3-7 tuổi, nhưng sau đó, quá trình từ từ đảo ngược bởi lẽ con người từng bước được “xã hội hóa”, tìm ra người yêu khác phái thay đấng sinh thành, và tiến tới trạng thái ổn định khi thành niên. Không phải là bác sĩ phân tâm, tôi không dám chẩn bệnh, nhưng qua câu chuyện giết (chữ nghĩa) cha trong bài viết “Trường hợp Võ Phiến”, tôi ngờ ngợ Thu Tứ đang còn ở một giai đoạn từ 3-7 tuổi, tức là trước khi ổn định được quá trình dục tính của mình. Có phải vì Thu Tứ không tìm được người yêu, sống cô đơn, ít giao du, nghề nghiệp đem bỏ để theo nghiệp văn như anh viết tiểu sử của mình, và tuy không nói nhưng cái bóng cha anh đè nặng trĩu trên cái nghiệp anh chọn lựa? Tôi không biết, nhưng nếu liều lĩnh một lời khuyên, tôi khuyên Thu Tứ nên đi tham cứu một nhà phân tâm. Có bệnh thì phải chữa, tất nhiên. Nếu không muộn, xin thêm: viết văn là một nghiệp dĩ, tôi ít thấy một nhà văn đích thực nào mà hạnh phúc!
Gần đây thôi, ở Hà Nội, chính quyền triển lãm những thành quả của cuộc Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất nửa thế kỷ trước. Khi người dân Dương Nội đang mất đất đến xem thì vì “mất điện”, người ta đóng cửa triển lãm. Trong blog Pro&Contra, nhà văn Phạm Thị Hoài mang ra “trưng” Ghi của Trần Dần về Cải Cách Ruộng Đất, và chỉ ở riêng vùng Bái Bắc thuộc tỉnh Bắc Ninh đã từng có 26 vụ con đấu tố giết cha mẹ. Đọc, tôi ngậm ngùi, không thể không liên tưởng đến bài “Trường hợp Võ Phiến”. Cuộc đấu tố sau đây là một hư cấu:
Người cha quì, vẫn cười, cái cười khoan hòa đến độ có chút ngu ngơ. Người con kề vai anh Đội, nhìn đám người xung quanh. Đội đập khẽ vào vai, người con xông ra quát:
- Này, có nhìn ra ai đây không?
- Dạ… Có, con là con ta mà!
- Không cha con chi ráo trọi… Mang máu mủ hòng lung lạc giai cấp hử? Mi biết mi tội gì với nhân dân không?
- …
- Mi không nhìn ra đại cuộc Giải Phóng và Thống Nhất đất nước. Mi phao là đâu có cần đổi bằng máu hàng mấy triệu người, nhận đi…
- Tui quên hết rồi! – Người cha thì thào.
- Cho là mi cũng yêu nước, nhưng lại mi yêu một cách tự ti!
- Tui hổng hiểu nổi yêu nước tự ti là chi…
Người con tay đưa lên trời, hà miệng hét:
- Đấy, bọn phản động nó ngoan cố vậy đó, nó chối thì nói hổng hiểu!
Đội nhìn quanh, ra dấu phóng tay phát động quần chúng. Tức thì quần chúng đồng thanh hô: Đả đảo phản động! Cách mạng muôn năm…
Người con tiếp tục xỉa xói:
- Mi chống Cộng cực đoan, mà còn cực đoan hơn cà những người cực đoan Cộng sản! Mi có nhận thế không?
- Tui quên hết rồi! Người cha lắc đầu.
- Văn chương chống Cộng của mi là phi dân tộc! Phải trốc cái gốc ung thối đó đi… Nghe chưa!
Đội lại ra dấu. Quần chúng đồng thanh: Phải rồi, đào tận gốc trốc tận rễ…
Người cha ngập ngừng:
- Tui quên hết rồi…
Anh Đội nhìn người con, ra lệnh:
- Đồng chí lôi “quả thực” ra!
Người con khệ nệ ôm một chồng sách ném toạch xuống đất.
- Hành hình, anh Đội phất tay.
Người con rút dao kéo, thẳng tay cắt vụn những trang sách cho sạch banh những đoạn chống Cộng, vung ném lên trời xanh. Quần chúng la, quả thực, quả thực… rồi nhảy lên vồ những con bướm trắng có vết mực in bay tung tưởi trên không. Cánh bướm bỗng tướm máu, mùi tanh tanh đâu đây thoang thoảng.
Người con khuỳnh tay, nói lớn:
- Mi nhận tội chưa? Còn điều gì để nói không?
Người cha im lặng một lát, giọng khẽ khàng:
- Tui quên hết rồi, chẳng còn gì đáng nhớ!
Năm 2010, tôi ghé thăm thì Võ Phiến đã bắt đầu quên. Người anh còn khoẻ, nhưng đầu chớm chút lẫn lộn. Cầm trên tay cuốn sách mới in tựa là “Cuối cùng”, anh nhìn tôi: “Nam Dao hay Nam Giao?”. Chỉ mới hai phút sau, anh cầm bút đề tặng tôi, anh lại hỏi chị, Dao D trên hay D dưới?
Lần cuối qua Cali cách đây hai năm, tôi điện thoại xin đến thăm anh chị. Chị bảo, thôi, anh lẫn lắm rồi, không nhớ gì đâu. Vì có lẽ chẳng có gì đáng nhớ chăng? Nhất là nay với cái “quả” ngàn cân mang tựa “Trường hợp Võ Phiến” thì quên là một ân huệ.
Nhưng thôi, Thu Tứ “hoàn cảnh” lắm.
Tội nghiệp!
Và cuối cùng thì cái gì của Caesar, trả lại cho Caesar, cái gì thuộc văn học, sẽ cũng rồi trả lại cho văn học.

N. D.
30-09-14
( Nguồn :Vanviet)