Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014

Con ngựa già của chúa Trịnh

Đón xuân Giáp Ngọ, Nguyễn Xuân Diện -Blog Tễu- tìm và giới thiệu truyện ngắn khá hay của nhà văn Phùng Cung, viết năm 1956.


                         
 Xin rước về để cùng xem!
Phương-Lộ là một làng nhỏ hẻo lánh, nằm lọt trong một thung lũng phía Nam chân núi Tản, cách chợ Đan-Lâm chừng bẩy dậm. Từ Đan-Lâm vào Phương-Lộ, trên con đường đất mòn, ngoằn ngoèo men theo dòng suối phải qua một chiếc cầu bằng đá vắt ngang suối, bên cạnh một ngôi đền nhỏ. Trong làng có lão già họ Nông, hai đời chuyên nghề buôn ngựa. Ông cụ sinh ra lão ngày trước là mã phu của triều Trần; khi mãn lính, trở về làng làm nghề buôn ngựa. Năm mười bốn tuổi, lão đã theo cha ra chợ Đan-Lâm học nghề. Lớn lên, lão đã nổi tiếng khắp vùng về môn xem tướng ngựa.

Lão Nông có con ngựa trắng, mình kim, lông trắng như bông, lại lấp lánh như có nạm kim cương, nên lão đặt tên nó là Kim-Bông. Lão thường khoe con ngựa này lão tìm mua được từ lúc nó chưa phát nha ở tận miền Nước-Hao. Lão đã từng đi nhiều nơi mà chưa thấy có con nào tướng phách toàn-mỹ như nó; có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thể "cao đầu phóng vĩ" của nòi ngựa chiến.

Từ khi con Kim-bông bắc yên, ngày ngày lão cưỡi nó đi các nơi để buôn ngựa. Hàng năm những cuộc đua ngựa miền này, không cuộc đua nào vắng lão. Không cuộc đua nào con Kim-Bông không đoạt giải nhất. Từ đó tiếng con ngựa hay, mỗi ngày được truyền rộng ra khắp nơi và lọt đến tai chúa Trịnh.

Thuở ấy chúa Trịnh đang cần tuyển mộ một đoàn kỵ binh để bình định đất nước, nên liền ủy một viên quan hầu cận, tìm đến tận nơi hỏi mua.

Lão nông tuy luyến tiếc con Kim-Bông, nhưng nghĩ đến cái tài của nó lão sẵn sàng trao lại cho viên quan mà rằng :"Con ngựa của bần dân thuộc loại quý mã, là vật, nhưng nó hiểu tiếng người. Bấy lâu nay nó sống với bần dân ở nơi sơn lâm hẻo lánh này, ăn cỏ núi, uống nước suối, tài nó có mà không được dùng, thật lòng bần dân cũng tiếc cho đời nó lắm! Nay chúa công lại cho vời nó về chốn triều đình để dùng nó xông pha chiến trận, bần dân cũng được hả dạ vì đã làm vừa ý con quý mã và cũng bõ công nuôi nấng tập luyện". Lão Nông miệng nói tay trao cương cho viên quan. Con Kim-Bông cũng dỏng hai tai gật gật cái đầu như biết mình sắp được từ giã cảnh sơn lâm hiu quạnh, để về vùng vẫy chốn kinh thành.

Trên đường về, viên quan hết lời khen ngợi con quý mã; Kim-Bông phi như gió, giả lại đàng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long.

Viên quan vào tâu với chúa Trịnh, hắn tả lại tướng phách cùng nước bay, nước kiệu của con ngựa. Chúa Trịnh lấy làm toại nguyện, và truyền cho các tướng tá chọn ngày mở hội đua để kén ngựa chiến.

Một buổi sáng, trên các ngã đường, nhân dân các vùng lân cận nghe tin, lũ lượt đổ về xem như nước chảy. Hàng nghìn ngựa tốt từ các nơi đem về được sắp hàng tề chỉnh bên cạnh những kỵ binh nai nịt gọn gàng. Con Kim-Bông ngơ ngác trước quang cảnh mới lạ, lòng nó rộn ràng, mắt nó đăm đăm nhìn thẳng phía cuối đua trường như để dương oai với đồng loại, nó nín hơi, tóp bụng, cất tiếng hí dài, lanh lảnh nghe sởn óc. Người kỵ binh đứng bên cạnh, bỗng né sang một bên, lao đao tưởng ngã. Bọn ngựa trố mắt nhìn Kim-Bông và cũng cất tiếng hí theo

Sau ba hồi trống lệnh, các kỵ binh lên yên, ra roi, bắt đầu rời vạch. Đoàn ngựa lồng lên trong bụi lốc mịt mù, những miếng đất bắn ra tứ phía như mưa rào, nhân-dân reo hò vang dậỵ Chỉ trong chớp mắt, con Kim-Bông đã vượt lên hàng đầu, vừa hí, vượt lên, chân trước khoăm lại như móc sắt, đuôi bay như giải phướn, tưởng như chân nó không hề chạm đất. Ở phía xa người ta nhìn nó chỉ còn thấy một bóng trắng lấp lánh, oằn lên, oằn xuống như một con rồng trắng uốn khúc. Nó bay tới phía nào là tiếng reo hò phía ấy vang lên không ngớt. Hằng loạt ngựa thấy sức mình không sánh kịp con Kim-Bông, bỏ dở cuộc đua, đứng dừng cả lại, hí hí nhìn theo cái bóng trắng nhỏ dần trong bụi nắng lòa của kinh thành. Khi dứt hồi trống, con Kim-Bông dừng lại, tai nó ù đi vì tiếng reo hò ca ngợi của xung quanh, nó càng nức lòng, chân nó dậm xuống đất cồm cộp như muốn bay thêm hàng nghìn vòng nữa mới phỉ sức.

Khi tiếng trống lệnh chuyển sang phi nước kiệu, con Kim-Bông rời vạch một cái, là bốn chân nó băm liền trên mặt đất như guồng nước, tiếng chân vỗ rồn rã như mõ đổ hồi, đuôi trải ra trắng như một dòng nước chảy xối. Nó chạy hết một vòng mà trên lưng nó một kỵ binh bưng một bát nước đầy, bát nước không sánh ra ngoài một giọt. Lúc này nó thấy tất cả đua trường đều hướng nhìn về nó, trầm trồ ca ngợi tài nó. Nó lại hí lên một tiếng thật dài kiêu hãnh.
Sau cuộc đua này, nó được cả đua trường tặng danh là "Bạch long Thiên-lý-mã" và chọn làm mẫu mực để luyện tập cho cả đoàn ngựa chiến của triều đình. Cho nên chẳng bao lâu các đồng loại của nó cũng trở thành những chiến mã lành nghề. Và từ đó nó cùng bầy ngựa chiến xông pha chiến trận, trải nhiều trận vào sanh ra tử. Nó nhớ nhất là trận quần chiến bên bờ sông Gianh. Thế địch mạnh, quân địch đã thắt vòng quanh nó, nhiều đồng loại nó đã phơi thâỵ Nó gắng hết sức mạnh, vùng lên như hổ đói, phá vỡ vòng vây, hạ thủ tướng địch, giành toàn thắng. Sau trận này, nó được chúa Trịnh chọn làm mã lệnh và được vào ở trong phủ Chúa.

Chúa Trịnh truyền cho quân lính, xây một chiếc hồ bán nguyệt, phía Nam vườn Thượng-uyển, để làm chỗ tắm cho mã lệnh, và cử hai mươi mã phu ngày ngày trong nom săn sóc ngựa quý của Chúa.

Lần đầu tiên con "Thiên lý" đặt chân tới Hoàng-cung. Trước mặt nó toàn những lâu đài nguy nga tráng lệ, trông phía nào cũng thấy vàng son chói lọi. Dưới chân nó toàn những đá xanh nhẵn bóng. Những cảnh vật mới lạ khiến nó sợ hão. Nó toát mồ hôi, run lên cầm cập, khi đặt chân lên những phiến đá hoa, được dịp đưa mắt nhìn hai hàng thị vệ tả hữu, đứng cắp gương trần bên hành lang. Nó rụt rè, co cổ lại khi mã phu dắt nó vào mã đài, nó tưởng mã phu đưa nhầm nó vào nơi ở của một tướng lỉnh.

Con Thiên lý được vào ngự hẳn trong mã đài ngày ngày chỉ ăn và tắm. Mỗi buổi chiều nó phải đứng một chổ để dăm bảy mã phu mang kéo tỉa từng sợi mao, vuốt ve từng chiếc lông đuôi. Nó càng cảm thấy bận bịu, tù cẳng. Nó bắt đầu mơ ước những cảnh sống khi còn ở bên ngoài cung cấm: "Ôi chao! Còn đâu những buổi sáng ta cùng đồng loại trên đua trường hàng vạn người ca ngợi tài ba? Với cái sức khỏe bay hàng nghìn dặm, với cái thể "cao đầu phóng vĩ" hùng dũng như ta, đã bao phen sông pha trận tuyến, đời ta tù túng như thế này thì ta sống sao được? Sao Chúa không cho ta được đem tài ra vùng vẫy trên chiến trường? Hay Chúa đã quên ta là kẻ có tài ?".

Một buổi sáng, nó đang đứng trong Mã-đài, hai con mắt đăm đăm vọng ra ngoài bức thành cao ngất, nó bỗng thấy một mã phu nai nịt gọn ghẽ, khác ngày thường, đến giắt nó ra đứng dưới mái hiên, phía tả hành lang. Nó sững sốt, tưởng phen này lại được xung trận. Một mã phu khác trải lên lưng nó một tấm gấm điều, xung quanh thêu kim tuyến. Nó ngoái cổ lại, bỗng thấy mình đẹp như phượng hoàng. Hai mã phu nữa mang đến đàng sau nó một vật gì vuông vắn giống như một nhà lầu, gấm vóc xanh đỏ phủ quanh. Một mã phu nữa mang cương đóng vào gáy nó. Bộ cương quý giá và đẹp đẽ làm sao? Đời nó chưa từng thấy. Hàm thiếc bằng bạc: hai đầu nạm vàng sáng lóe. Nó sung sướng gục đầu xuống nạp hàm thiếc một cách ngoan ngoãn. Khi mã phu buông tay: lạ lùng lắm, nó thấy hai vật gì to bằng hai cái lá đa che ngang hai bên mắt khiến nó chỉ có thể nhìn thẳng phía trước mà thôị Rồi một mã phu đẩy nó lùi lại, đứng giữa hai càng gỗ sơn son thếp vàng. ủa lạ quá chừng, những cái gì mà đẹp thế này? Ta sẽ làm gì đây? Nó rùng mình, thấy hãnh diện như được sống một kiếp sống khác, sung sướng hơn trước.

Bỗng dưng hai càng gỗ dúi mạnh một cái, cổ nó bệt xuống, miệng nó gần chạm đất, nó vừa ngóc được lên thì giây cương đã ghìm thẳng. Nó cất bước thấy nặng; cái nặng quái gở, như bóp nghẹt lấy cổ, có lúc bềnh bồng nhẹ đi một chút, nhưng rồi gáy nó càng như lún xuống. Nó phải cố lấy gân bốn vó mới giữ được cái thế đứng đường bệ. Rồi bỗng có một ngọn roi da quất nhẹ vào mông, nó cắm cổ đi. Khi nghe tiếng bánh xe nghiền trên mặt đá, nó mới biết là nó đang kéo xe cho chúa.

Nó gục đầu xuống lủi thủi kéo chiếc xe qua sân, hai mắt nó lờ đờ nhìn thẳng, mỏi mệt, chán ngán.

Nhưng chẳng bao lâu, những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân-tử vừa thơm vừa giòn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên-lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa cho đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên-lý-mã.

Trong những buổi chầu nó thấy hàng trăm đôi hia, ủng và đủ các loại ống quần, tà áo, văn có, võ có, lướt đi lướt lại trước mắt, nó càng thấy chức vị nó to tát ghê gớm! Chốn thâm nghiêm cung cấm nào mà chân nó không bước tới? Có việc quốc-sự triều-đình nào vắng mặt nó? Nó đi đến đâu cũng thấy người chấp tay khấu đầu tung-hô Vạn-tuế. Đời nó quả là đã sang một bước đường hiển hách, hơn tất cả những lúc oai-phong chiếm giải đầu trên các trường đua.

Một buổi chiều, trên cổng thành đã nổi trống thu không, mặt trời đã khuất hẳn mái lầu tây, mặt hồ đã gợn lên một mầu đỏ nhạt của ráng chiều, nó sung sướng kéo Chúa cùng Bà Phi đi ngoạn cảnh. Đi chẳng cần đến đâu, nó được đôi lúc thong dong đứng lại, soi bóng dưới nước. Chà! mắt nhìn mặt, ta uy nghi lộng lẫy đến thế này ư ? Kìa hai lá đa che mặt ta có khác gì hai cánh mũ của vị đại thần? Hai càng gỗ khác gì tay ngai ngày ngày Chúa vẫn ngự! Phải chăng giời đã an bài cho số phận ta! Nó càng nhìn càng thấy bóng nó dưới nước to ra, to mãi, uy nghi trong sắc nước lẫn sắc trời.

Nó đang say sưa ngắm bóng bỗng giây cương lại giật mạnh. Mép nó găng thẳng ra, nó lại bắt đầu cất bước. Xe tới đầu vườn thượng-uyển, có lệnh dừng lại. Tức thì hai bên tay ngai dìm mạnh cổ nó xuống rồi lại bềnh lên nhẹ bổng. Nó vừa ngóc đầu lên thì một luồng gió mát, lướt đưa vào lỗ mũi nó những hương thơm ngào ngạt của muôn hoa. Nó phồng hai cánh mũi hớn mặt lên thì gấu xiêm mầu thiên-thanh của Bà Phi phất nhẹ qua mặt nó. Nó cảm thấy một vị thơm đầm đậm. Nó đưa mắt nhìn theo chỉ thấy từ ngang lưng trở xuống của Chúa và Bà Phi. Gió hồ lồng vào vạt áo Chúa và giải xiêm Bà Phi, làm căng phồng lên và đú đởn múa may trước mặt nó. Nó cảm động, đứng ngẩn ra, hai mắt dương thao láo: "Chà! Thật là ngoạn mục! Ôi! Giời đã ban cho ta đôi nhãn ngọc để riêng ta được nhìn những vưu-vật của trần-gian, ta đội ơn Trời".

Càng nhìn theo càng thấy ngoạn mục, nó càng thấy hối hận với những sự việc ngày trước. Nó dậm chân xuống đất cộp cộp mắt nó nhắm lại, đầu nó đập vào hai càng xe như để nhận lấy một hình phạt xứng đáng với tội lỗi của mình. Vừa đập dầu vừa kể tội : "Tội thứ nhất là khi chưa vào phủ Chúa ta đã để cho Chúa và Bà Phi phải vất vả khó nhọc biết chừng nào! Tội thứ hai: Sao ta dám đem một việc nhỏ bé tầm thường so sánh với chức mã lệnh đáng tôn kính của Chúa đã ban cho như thế chẳng phải trước đây ta đã phụ ơn Chúa hay sao? Tội ta thật là đáng phanh thây mới phải. Nếu ta chỉ nghĩ đến cuộc đời phóng khoáng, chỉ nghĩ đến những lúc cùng đồng loại đua tranh, thì lấy ai để cùng Chúa gánh vác giang sơn, làm cho trăm họ được an-cư lạc-nghiệp! Ơn hưởng lộc Chúa, sức ta ngày một cường tráng, thì cái vượt hàng ngàn dậm đối với ta cò gì đáng kể".

Sống một cuộc đời lặng lẽ trong phủ Chúa, bằng sự kiêu hãnh với chức mã lệnh, chẳng bao lâu trên bờm, mao con Thiên-lý đã trồi lên một lớp lông vàng sòe. Trước mã đài nó đã nhìn thấy những cây cảnh bao lần đổi lá. Nhưng nó không biết đời nó đã chuyển dần về già. Tài nó cũng đã mòn mổ. Nó vẫn tưởng nó còn sức chạy dư ngàn dậm.
Có một buổi sáng, nó được kéo xe để Chúa cùng Bà Phi ra ngoạn cảnh ngoại thành. Từ ngày vào phủ Chúa, lần đầu nó được đi ra ngoài. Nó ước ao được thăm cảnh cũ. Xe ra khỏi phủ Chúa, bon bon trên con đường đất rộng thênh thang. Nhìn thẳng phía trước, nó lấy làm lạ, nó kêu í í trong cổ như tự hỏi: "Làm sao con đường này ngày xưa rộng mà nay nhỏ bé như thế này!". Đi được một quãng nó nhìn lên phía trên, lại dừng lại tự hỏi: "Ô hay, ngôi chùa kia, ngày xưa rõ ràng nằm bên cạnh một quả đồi lớn, mà bây giờ lại nhỏ bằng con đường ta đang đi là nghĩa làm sao?". Tất cả những cảnh vật trước mắt nó đều nhỏ lại, và thẳng tắp. Nó nhìn cánh đồng, cánh đồng cũng chỉ là một con dường thẳng.
Rồi cây cỏ, núi đồi cho đến mầu giời xanh cũng chỉ thu nhỏ lại là một đường thẳng. Nó không ngờ hai chiếc lá đa che hai bên mắt chỉ cho nó nhìn được một chiều. ... Xe đi mãi. Lúc gần đến một thao trường, nó bỗng nghe tiếng hí của đồng loại. Tự dưng nó hớn hở : "Chắc các chú em bao lâu không gặp ta, sẽ khấu đầu chúc tụng ". Vừa nghĩ nó vừa cất nhanh bước. Xe vừa tới thì đồng loại nó cũng nhảy bổ đến trước mặt nó, miệng hí chân cất tiền, cất hậu như chê bai nước đi và tướng mạo của nó. Nó tím gan, hí lên một tiếng như để quở mắng: "Bọn nhãi kia, tội các chú đáng chặt đầu làm lệnh! Các chú không biết ta là ai ư? Đã quên tài của anh đấy rồi sao?". Tất cả đồng loại nó, nhe cả răng, và í í lại trong cổ: "Chúng tôi biết bác lắm, biết bác ngày xưa là kẻ có tài nhưng bây giờ chúng em nhìn qua đã thấy bật cười về tài của bác. Thôi bác ạ ! Đững khoe tài nữa, chúng em đây ngại bác không rời được khỏi cái xe của Chúa! Rời ra thì thóc kia trộn mật ai ăn ?".

Con Thiên-lý uất lên, muốn thoát khỏi xe xông thẳng ra ngoài để tỷ sức, nhưng trên xe lại giật cương. Nó bực lắm nhưng cũng phải cắm đầu đo. Vừa đi vừa nghĩ : "Những kẻ ngu si hèn mạt kia, ở đời này bay chỉ nhìn có một chiều. Bây không biết được ta làm đây dể mấy kẻ đã làm được! Sức bay được mấy nả mà vội kiêu ngạo, bay chạy được vài dậm đã phờ mao sều dão. Rồi đây ta sẽ cho bay biết tài ba!".

Và hình ảnh một trường đua gió lộng, bụi cuốn, cờ bay, bỗng hiện ra, như thách thức. Con Thiên-lý-mã vẫn tin mình còn đủ sức phi lên hàng đầu.

Sự đời biến đổi. Sau đó ít lâu, chúa Trịnh được tin nhiều tướng tá thua trận ở bên bờ sông Gianh. Chúa định thân chinh đi, nên truyền cho viên tướng trông coi về kỵ binh mang mã lệnh ra đua trường để ôn dượt trước khi xung trận. Viên tướng liền cúi đầu tâu lại: "Muôn tâu Chúa-công, hiện nay trong triều-đình thiếu gì ngựa chiến có dư sức vượt hàng nghìn dậm, và đã từng dự trên dưới một trăm trận. Xin chúa-công để tiểu tướng được chọn dâng một con mã chiến có sức khỏe vào bực nhất. Còn như con mã-lệnh, cứ nên để nó kéo xe; vì từ khi đem nó vào phủ Chúa, nó ăn thì nhiều, lại không hề luyện tập, tài nó ắt không được như trước. Nếu chúa-công dùng con mã lệnh để ra trận, tiểu tướng áy náy lắm!".
Nghe tâu trình, chúa Trịnh cũng thấy viên tướng là có lý, nhưng chúa vẫn còn tin ở tài con mã lệnh, Chúa bèn hạ lệnh cho mang con mã lệnh ra tỉ sức cùng các chiến mã khác để tiện bề kén chọn.

Con Thiên-lý-mã được dịp rời phủ Chúa ra đua trường. Hai cái lá đa đã được cất đi. Nó bàng hoàng nhìn giời, nhìn đất, mắt nó hoa hoa,. đầu nó choáng váng. Cảnh vật như quay chong chóng, cây như mọc ngược, núi như đổ xuống. Vừa gặp đồng loại một cái, nó cố dóng hai tai tóp bụng lại lấy hơi hí một tiếng để dương oai. Nhưng tiếng hí của nó vừa ré lên thì cụt lủn như vật gì nút lấy mõm. Các đồng loại của nó cũng nhe răng ra cười rồi cùng cất tiếng hí làm cho nó càng uất. Không chờ tiếng trống lệnh, nó đã lồng lên, tức thì các đồng loại của nó cũng bỏ rạch vượt theo. Tiếng trống liên hồi, con Thiên-lý càng cắm cổ chạy. Nó đã tưởng mình thắng cuộc, nó đắc chí ngoáy đầu lại thì bọn ngựa chiến đã tới sát đàng sau. Chỉ trong chớp mắt nó bị tụt lại Không chịu, nó càng lồng lên. Bổng nó thấy nhói một cái ở trong ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua, nó biết là đứt ruột, không thể sống được. Nó gắng mở to hai mắt, rên lên một tiếng như nói rằng: " Tiếng tăm lừng lẫy của ta chỉ có thể chết ở chiến-trường. Nhưng, than ôi ! Bãi cỏ này cũng là bãi chiến-trường, chết thế này cũng là chết vì giang sơn, vì Chúa ! ".

Trước hơi thở cuối cùng, nó lấy hết sức tàn, ngốc đầu lên cao, co co hai chân trước, thẳng thẳng hai chân sau, chừng như để cố giữ lấy cái thế "cao đầu phong vĩ".

Hà Nội 10-1956

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

CHOÁNG

Được ngày nắng đẹp, giấc trưa, Hồng Bắc, phó/ trưởng ban QLDA huyện Vân Hồ, tình nguyện làm "xe ôm" đưa mình sang nông trang chè Nhật Bản, vì biết cách đây hơn 10 năm mình có tham gia thiết kế và thi công nhà ở/nhà xưởng của Công ty này. Chuyện dài, lúc nào rỗi xin kể hầu chư vị, ly kỳ phết! Tiếc là không gặpKatanô, hồi ấy có lần nói vui" Ối đứa con gái Việt thích tớ làm chồng 2 đấy!"…
          Cô Ngà, nhân viên đưa Bắc và mình thăm xưởng chế biến, khoe rằng, chúng em chưa phải sửa tý gì, kể từ ngày sử dụng! Được khách hàng khen kể cũng … mát mặt tý. Nhưng …….
Sướng nhất là được đứng giữa đất trời của ta… mà ngắm chè của Nhật xanh ngút ngát, mát cả lòng,

               Mới biết, vài tuần mới cần làm cỏ một lần bằng tay. Thu hái bằng máy. Đây là máy "là" ( Xén lại) cho phẳng, và một máy cắt cành đâm ngang ra rãnh nữa .

Tự nhiên thấy thương cho cây dâu. Cái hồi  phong trào " cây gì, con gì? được đưa từ đồng bãi Thái Bình lên, èo uật vài năm, lạ thổ nhưỡng, chết yểu. Ông Yasuda, chớp thời cơ xin thuê luôn.
                                                           Ồ! Người Nhật khôn thật!
                         Cả vựa chè, chỉ 3 người quản lý với chừng vài ba chục người làm công nhật khi cần, cô Ngà nói:" Hiện công ty vẫn Lỗ- Hậu đầu tư mà !". Mình cười nháy mắt với Bắc" Ừ! Lỗ kiểu Côcacôla!"

                                                     Trời ơi!  Nghe mà choáng!



Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

ĐỌC THẤY SƯỚNG!

Ai làm hỏng " Di sản tục ngữ"?


Hay là những sai lầm của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương trong Từ điển tục ngữ Việt
  Hoàng Tuấn Công 
NQL:Công nhận Hoàng Tuấn Công là đại cao thủ ngôn ngữ. Đọc anh thật sướng. Không mấy khi mình đọc bài viết học thuật kiểu này say mê đến quên cả giờ ăn. 
Trong bài “Giới 8X, 9X với di sản tục ngữ” trên báo Lao động cuối tuần (số 10-8/3/2013) Nhà ngữ học, TS Nguyễn Đức Dương viết: “Không ít ý kiến cho rằng giới trẻ ở độ tuổi 8X, 9X ngày nay đang quá thờ ơ với tục ngữ [TN]. Một cô giáo dạy văn ở THCS tôi quen đã không chia sẻ nhận định ấy, mà thậm chí còn gay gắt bác lại. Theo cô, các em chỉ thờ ơ khi chưa thấu hiểu nội dung thôi, chứ một khi đã nắm được rồi, các em còn tỏ ra thích thú là đằng khác”.
Thế rồi, được sự giúp đỡ của cô giáo nọ, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã làm một cuộc trắc nghiệm thú vị: Đưa ra 10 câu tục ngữ, mỗi câu kèm 2 cách giải thích trong 2 cuốn sách để các em chọn “thích” hoặc “không thích”: một cách giải thích trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân (NXB Văn Hóa - 1989); một của chính Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương (trong Từ điển tục ngữ Việt-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2012). Kết quả (theo bài báo): cách giảng giải của Nguyễn Đức Dương được các em học sinh đánh dấu “thích” chiếm tỉ lệ áp đảo so với GS Nguyễn Lân. Nguyễn Đức Dương (NĐD) đi đến kết luận: “Nhận xét cuối cùng xin để bạn đọc tự đưa ra. Riêng về phần mình, chúng tôi chỉ có một nhận xét nhỏ: Làm cho nội dung của các đơn vị tục ngữ vốn vô giá của chúng ta sai lệch đi tới mức ấy thì ít người ưa và lắm người ghét âu cũng là chuyện thường. Chẳng phải vô cớ mà người xưa hay dặn: “Tiên trách kỷ; hậu trách nhân”(Nên tự trách mình trước khi trách người)”.
 
Việc làm trên của TS Nguyễn Đức Dương thể hiện tâm huyết, trách nhiệm cao của một Nhà ngữ học lão thành đối với thế hệ trẻ. Nhưng tiếc thay, chính ông lại quên mất lời “người xưa hay dặn”. Bởi GS Nguyễn Lân giải thích sai đã đành, đến lượt mình, Nguyễn Đức Dương lại mắc phải cái sai kiểu khác, không kém phần nghiêm trọng. Sau đây là một phần nhỏ những sai lầm trong cuốn Từ điển tục ngữ Việt của Nguyễn Đức Dương, kể cả những câu được nhà ngữ học xem là chuẩn mực, đem ra làm mẫu cho các em học sinh, qua đó phê phán GS Nguyễn Lân.
 Những câu in đậm, in nghiêng của Nguyễn Đức Dương. Nội dung gạch đầu dòng là trao đổi lại của Hoàng Tuấn Công:
Ăn khi đói; nói khi say
 Ăn là chuyện hay diễn ra khi bụng đói; nói là chuyện hay diễn ra khi đã ngà ngà say.

  -Đối với loài vật, chúng chỉ ăn khi đói (theo bản năng). Nhưng với con người, chúng ta còn ăn để thưởng thức, ăn cho vui, ăn để giao lưu, kết tình bạn bè... Ba ngày Tết, bụng không đói, mồm chẳng thèm, thế mà người ta vẫn ăn. Thậm chí ăn rất nhiều món, nhiều thứ. Còn khi “đã ngà ngà say” có người nói nhiều, nhưng không ít người lại im thít, hoặc lăn ra ngủ tít thò lò ! Cái “chân lý” mà Nhà ngữ học đưa ra thật khó đứng vững. Vả lại, giải thích như vậy thì còn gì là tục ngữ nữa ? Thử hỏi ta học được gì qua cách giải thích của N.Đ.D ? Tục ngữ là tri thức, là kinh nghiệm cơ mà ? 

Câu tục ngữ đang bàn khuyên người ta cần thận trọng trong ăn và nói, đặc biệt là lúc đói và lúc say. Ăn lúc đói có thể không làm chủ được bản thân, ăn hỗn, ăn tham làm mất tư cách con người (Miếng ăn là miếng nhục-Tục ngữ); hoặc khi đói ăn không kịp nhai, ăn uống bậy bạ, dễ sinh bệnh tật. Nói lúc say (Rượu vào lời ra, Nói với người say như vay không trả-Tục ngữ) dễ sinh ra nói càn, nói bậy, phạm sai lầm, mắc lỗi đáng tiếc. Cách giải thích “tự nhiên chủ nghĩa” của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương khiến câu tục ngữ bị mất đi giá trị vốn có của nó là giáo dục, răn đời sâu sắc.
Ăn vụng không biết chùi mép
Đã ăn vụng lại còn chẳng biết chùi mép (thì quả là dại dột hết chỗ nói). Hay dùng để nhắc mọi người hãy nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong (cho khỏi bị phát giác).
-Cứ theo cách lý giải này, tục ngữ khuyên dạy “mọi người” (trong đó chắc hẳn có tôi, chúng ta và cả… nhà ngữ học ?!) “nhớ chùi kỹ mép sau khi ăn vụng xong” (!) để sao cho trót lọt, “cho khỏi bị phát giác” (!) Hóa ra tục ngữ cũng dạy kinh nghiệm ăn vụng thế nào cho khéo ư ?
 Thực ra, đây là một câu chửi, câu phê phán, chế giễu, mỉa mai kẻ làm chuyện vụng trộm, bất chính nhưng lại hớ hênh, để lại chứng cứ, dấu vết quá rõ ràng khiến người đời cười chê.
Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa
Mới ba tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sẩy, mới bẩy tháng mà đã sinh (thì gọi là) con sa.
-Dân gian không có ý dùng tục ngữ để giải nghĩa từ vựng “con sẩy”“con sa” trong tiếng tiếng Việt. 
“Ba tháng con sẩy, bẩy tháng con sa” là câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm dưỡng thai, an thai của dân gian (mà đến nay đã được khoa học chứng minh): trong ba tháng đầu thai kỳ, người mẹ thường dễ bị sẩy thai nhất. Bởi vậy trong thời kỳ này, chuyện đi đứng, sinh hoạt, thai phụ phải kiêng khem cẩn thận. (Đông y có bài thuốc “an thai”, Tây y cũng có liệu pháp điều trị chống sẩy thai). Vượt qua được thời kỳ 3 tháng đầu, thai nhi sẽ ổn định hơn. Tuy nhiên đến tháng thứ 7, thai phụ lại rất dễ bị đẻ non (con sa). Do đó từ tháng thứ 7 người mẹ cũng phải cẩn trọng trong đi đứng, sinh hoạt để tránh bị sinh non. Ba tháng con sẩy, bảy tháng con sa là vậy đó.
Báng đầu thằng trọc phải nể lòng ông sư
Cốc (vào) sọ những kẻ đầu trọc thì phải nể lòng ông sư (vì đầu ông sư cũng trọc).
-Từ “báng” cũng có một nghĩa là “cốc”. Tuy nhiên, trong câu tục ngữ trên, “cốc” không thể hiểu là “cốc (vào) sọ” được. Nếu “cốc” vào đầu kẻ trọc thì kẻ trọc chịu đau, đâu ảnh hưởng gì đến ông sư ? Báng ( ) là từ Hán-Việt có nghĩa là: báng bổ, mỉa mai,lên tiếng chê bai, xúc phạm đến hình ảnh hoặc những điều đối với người khác là linh thiêng. Câu này có ý khuyên mọi người nên thận trọng khi ăn nói, nhất là những lời có ý báng bổ, xúc phạm kẻ khác.
Bạng duật tương trì ngư  ông đắc lợi
Trai và cò mà tranh ăn với nhau thì kẻ được hưởng lợi thường là ông đánh cá (vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp). Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tranh ăn với nhau mà dễ bị kẻ ngoài cuộc đoạt mất.
-Sẽ thật không phải nếu dám coi thường nhà ngữ học - TS Nguyễn Đức Dương chưa hề biết đến điển cố“Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.Tuy nhiên, việc TS giải thích sai câu tục ngữ này lại nói lên điều đó.
Ở đây không có chuyện “trai và cò tranh ăn với nhau”, càng không có chuyện ông đánh cá “vốn được mời đứng ra phân xử vụ tranh chấp”. Điển cố này tóm tắt: Theo Chiến quốc sách, một hôm con trai mở miệng phơi nắng trên bãi cát, cò đi kiếm mồi, mổ ngay vào ruột con trai, trai liền khép chặt hai mảnh vỏ lại. Cò và trai cùng giằng nhau mãi, không con nào chịu nhường con nào, lão đánh cá đi qua thấy vậy liền chộp được cả hai (Điển Cố văn học - Nhà XB Khoa học xã hội - Hà Nội 1977).“Tương trì” nghĩa là níu giữ, giằng co nhau, không phải là “tranh ăn”như  soạn giả giải thích. Lẽ nào nhà ngữ học không biết đến cả mấy câu ca dao diễn dịch rất hay câu chuyện này: “Cái cò mà mổ cái trai, Cái trai quặp lại lại nhai cái cò, Ngư ông bước tới lò dò, Giơ tay chộp lấy cả cò lẫn trai” ?!)
Cà làng Hạc ăn gãy răng; khoai làng Lăng ăn tắc cổ
Cà làng Hạc (rắn tới độ) có thể làm gãy cả răng khi nhai; khoai làng Lăng (cứng tới độ) có thể làm tắc cả cổ khi nuốt.
-Lẽ nào nhà ngữ học lại không hiểu lời ăn tiếng nói của dân gian ? “Gãy răng”“tắc cổ” chỉ là cách nói ngoa dụ mà thôi. Cà làng Hạc (nay thuộc TP Thanh Hoá) là thứ cà màu trắng, ăn rất giòn. Khi cắn, âm thanh quả cà vỡ ra, giòn tan, khiến người ta tưởng như hàm răng người ăn cà cũng gãy ra, vỡ theo đánh “đốp”. (Còn có giống cà quả nhỏ, mầu trắng, ăn giòn tan như “pháo” nên gọi là cà pháo). Làng Lăng (làng Linh Lộ-xã Quảng Hợp-Quảng Xương- Thanh Hóa) có giống khoai tên là Ô Xập, lá chia nhiều thùy hình chân vịt, củ tròn, bột trắng xóa từ ngoài vào trong nên khi ăn thường bị nghẹn, cảm tưởng như cổ bị tắc lại. Câu tục ngữ này ngợi ca hai sản vật cà và khoai đều ngon, quý, không phải chê“rắn”“cứng tới độ” ăn “gãy răng khi nhai”“tắc cả cổ khi nuốt” như soạn giả lầm tưởng.
Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
-Từ “khê” được Nguyễn Đức Dương giải thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta gọi là ải thâm, không ai gọi đất “khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Câu tục ngữ trên nói về khó khăn của vùng đất không chủ động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị “khê” - khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là cây lúa nước).
Thực ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm một cái sai khác: “Chiêm khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa); khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo cách giải thích này, Nhà ngữ học đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận xét về đặc điểm “thời tiết hay gặp” của vụ chiêm và vụ mùa.
Đám cưới chọn ngày; đi cày chọn hướng
(Làm) đám cưới thì nhớ chọn ngày (lành); cho trâu ra đồng đi cày thì nhớ chọn hướng (vượng).
-Làm đám cưới “chọn ngày (lành)” thì đúng rồi. Nhưng “cho trâu ra đồng đi cày” cũng phải “nhớ chọn hướng (vượng)” mới cày thì nghe kỳ dị quá ! Nếu vậy, muốn trở thành thợ cày, người ta phải đi học thày phong thủy trước đã; và khi ra đồng, ngoài con trâu, cái cày, bác nông dân còn phải kè kè thêm cái la bàn ? !
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam manh mún, nhỏ lẻ. Ruộng thì vuông, ruộng hình chữ nhật, ruộng xéo, gẫy góc, đủ mọi hình thù. Đường cày đầu tiên sẽ là đường quyết định cho tất cả đường cày, luống cày tiếp theo. Do đó, phải chọn hướng để cày, sao cho có được nhiều đường cày dài, trâu ít phải quay đầu, đồng nghĩa ít phải cuốc bờ, cuốc góc. “Đi cày chọn hướng” chỉ đơn giản vậy thôi.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
-“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ.
Đóm ăn ra; tim la ăn vào
Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào.
-Có thể dễ dàng nhận ra soạn giả chép nhầm từ “đom” thành “đóm” rồi giải nghĩa từ vựng, diễn giải nội dung tục ngữ rất khiên cưỡng. Tại sao bỗng đâu đem chuyện đóm cháy so sánh với bệnh tim la ? Mặt khác khi cố tình lý giải “đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra ngoài” cho hợp với từ chép nhầm khiến đã sai càng thêm sai. Khi đóm cháy, ngọn lửa lan dần từ ngoài vào phía trong (phía tay người cầm đóm) đâu có cháy từ phía trong tay người cháy ra ngoài ? Sai sót này xuất phát từ chỗ soạn giả không hiểu quy luật cấu trúc từ của tục ngữ, thành ngữ dân gian. (Giống trường hợp câu Áo cứ tràng, làng cứ xã bị GS Nguyễn Lân chép nhầm thành Áo cứ chàng, làng cứ xã , mà chính Nguyễn Đức Dương đã từng phê phán trong phần phụ lục Từ điển tục ngữ Việt).
 Đom (là cách gọi tắt bệnh lòi đom hay lòi dom)  cũng là tên gọi khác của bệnh trĩ. Bệnh này là chứng sa trực tràng, phát triển theo chiều hướng “ăn ra”, tức ngày càng lòi (lồi) ra ngoài hậu môn. Còn bệnh “tim la” (hay tiêm la hoặc xiêm la, bệnh lậu) lại xâm nhập (chủ yếu qua đường tình dục, đường máu…) rồi ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, không nhìn thấy được. Như vậy lòi đom tim la đều là hai chứng bệnh. Câu Đóm cháy ăn ra; tim la ăn vào” (thêm chữ “cháy”) Nguyễn Đức Dương dẫn ra ngay sau đó và cho rằng đồng nghĩa với“Đóm ăn ra; tim là ăn vào”, chẳng qua chỉ là một dị bản ngụy tạo, mục đích cố chứng minh cho cái vô lý của “Đóm ăn ra, tim la ăn vào” mà thôi.
Đói giỗ cha; no ba ngày tết
Hay bị đói là vào dịp giỗ cha (vì đâu còn lúc nào mà nghĩ tới chuyện ăn trong khi đang mải lo chuyện cúng giỗ); hay được ăn no là vào dịp ba ngày Tết (vì đó là một thông lệ vốn có tự ngàn xưa)
-Không phải "hay đói là vào dịp giỗ cha". Chẳng có ở đâu phong tục làm giỗ cha lại theo quy luật như thế. Giỗ cha là dịp lễ trọng (Trâu bò được ngày phá đỗ, cón cháu được bữa giỗ ông - tục ngữ). Nếu "đói vì mải lo chuyện cúng giỗ" thì cúng xong cũng phải được ăn chứ ? Tục ngữ có câu "Trước cúng cha sau va vô miệng" cơ mà ? (Chữ va có tính chất hài hước, ý chỉ con cháu ăn uống thực sự sau khi cúng giỗ). Thực ra, câu tục ngữ “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết” được hiểu như sau: Ngày giỗ cha rất quan trọng, nhưng không dứt khoát phải cỗ bàn thịnh soạn. Gặp năm mùa màng thất bát, đói kém, chiến tranh loạn lạc thì ngày giỗ cha có khi chỉ có nén hương, chén nước, bát cơm, quả trứng gọi là nhớ ngày kỵ. Như thế không có gì là trái đạo lý. Bởi tín ngưỡng thờ cúng của người Việt không câu nệ mâm cao cỗ đầy, "Bắt thiếu giỗ, không ai bắt cỗ lưng". Thế nhưng ba ngày Tết lại là chuyện khác. Người ta có thể túng thiếu, quanh năm nhịn đói, nhịn thèm, nhưng ba ngày Tết cũng phải chạy vạy bằng được để ít nhất không được ăn ngon cũng phải ăn no. Thế nên có câu "Giàu hay nghèo, ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà". Tết đến người ta không chỉ ăn cho no bụng mà còn ăn để lấy may cả năm. Ngày Tết được ăn ngon, ăn no, mặc đẹp, vui vẻ, nhàn hạ thì hy vọng cả năm cũng sẽ được như vậy. Tóm lại, câu tục ngữ đưa ra ngày quan trọng (giỗ cha) để so sánh, khẳng định một ngày khác quan trọng hơn: Tết là ngày quan trọng nhất trong tất cả những dịp lễ quan trọng trong năm; Có thể bị đói vào ngày giỗ cha nhưng ba ngày Tết dứt khoát phải được no. Ta còn bắt gặp cách nói này của dân gian trong câu "Cha chết không lo bằng gái to trong nhà". Thực tế "cha chết" là đại tang, việc lớn lắm. Thế mà dân gian lại đem so sánh và cho rằng không bằng chuyện "gái to trong nhà". Thủ pháp này cũng nhằm gửi đến một thông điệp, kinh nghiệm: có con gái lớn đến tuổi lập gia đình ở trong nhà là nỗi lo lắng lớn, (ví như lo quá lứa lỡ thì, lo chẳng may “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, chửa hoang, tai tiếng...) Sẽ là việc làm khá hài hước nếu chúng ta thắc mắc và cố đi tìm nguyên nhân tại sao, ở đâu lại có chuyện coi thường việc "cha chết" như vậy.
Tham khảo: Về câu "Đói giỗ cha no ba ngày Tết", trên Báo Lao động Cuối tuần (7/1/2012), mục "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt" PGS TS Phạm Văn Tình cho biết: "bản thân tôi nhiều lúc cũng không rõ nguyên do từ đâu dẫn đến câu tục ngữ này. Hầu hết các sách sưu tầm văn hoá dân gian chỉ thống kê chứ chưa giải thích kỹ câu đó (...). Đầu năm 2010, khi cuốn “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2010) xuất bản, tôi vội vã tra ngay". Theo PGS TS Phạm Văn Tình "cách cắt nghĩa như vậy (tức cách giải thích của Nguyễn Đức Dương-HTC) cũng chưa thật rõ ý". Thế là PGS TS Phạm Văn Tình đã phải  đi làm cuộc "điền dã" không cần thiết theo cách "hỏi các cụ cao niên ở nhiều nơi tôi qua (Đông Cứu, Gia Lương, Hà Bắc; Yên Xá, Ý Yên, Nam Định; Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ, Thái Bình...)" để được các cụ giải thích tại sao lại đói vào ngày giỗ cha rất dài dòng. Theo đó, cách giải thích của PGS TS Phạm Văn Tình công phu hơn nhưng cũng không ngoài một số nguyên nhân là phải lo chuyện lễ lạt, cúng cấp, tiếp khách...nên bị đói vào ngày giỗ cha như TS Nguyễn Đức Dương. Việc làm này khác nào cất công đi tìm hiểu xem ở đâu, tại sao lại có chuyện “Cha chết không lo bằng gái to trong nhà”.
Đói no vua bếp hay; đắng cay bà gừng biết
Cả khi đói lẫn khi no vua bếp đều biết tường tận; cả khi khỏe mạnh lẫn khi ốm đau bà gừng đều biết rõ hết. Hay dùng để ngợi khen lòng cảm thông sâu sắc của ông Táo và củ gừng đối với thân phận của người nghèo ở nông thôn hồi trước.
-Nguyễn Đức Dương chú thích: "Bà gừng. Tên dân gian hay dùng để gọi củ gừng theo lối ẩn dụ, vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật".
Cách giải nghĩa và chú thích nghe thật mùi mẫn. Thế nhưng, đó chỉ là lời “tán” vô căn cứ. Nghĩa đen của câu thành ngữ này là: Ông Bếp phụ trách việc bếp núc nên gia chủ đói hay no, nấu nướng ăn uống món gì đều không giấu được. Còn “bà Gừng” thường được dùng để "làm thang" cho ấm thuốc Bắc (cắt ba lát gừng bỏ chung với ấm thuốc để đun). Vì "nằm" ngay trong siêu thuốc suốt quá trình sắc nên thuốc đắng hay cay "bà gừng đều biết" cả, không thể giấu được. Và vai trò của "bà gừng" chỉ là phụ gia dẫn thuốc, để tăng công hiệu của thuốc. Không nên vì không hiểu mà tâng bốc "bả" thành "vị thầy thuốc tài ba vẫn cứu giúp người dân quê nghèo trong việc chạy chữa mọi thứ bệnh tật" (!) Nghĩa bóng câu thành ngữ này là: Không thể giấu giếm được sự thật; Sự thật sẽ được xác minh bởi những người trong cuộc.
 Đừng chờm mà có ngày chấn móng
   Đừng (xây tường vách) chờm (ra quá xa chân móng đỡ nó) mà có ngày sẽ bị chấn móng.
   -“Chấn móng” được Nguyễn Đức Dương chú thích: “(Tường vách) bị gãy gập lại ngay tại nơi tường, vách tiếp giáp với chân móng”. Thế nhưng như thế là tường bị đổ chứ móng đâu có chấn ? Hơn nữa, nếu giải thích theo hướng này thì “chờm” (vần ch) phải thay bằng “trờm” (vần tr) mới đúng. Việt Nam tự điển giải nghĩa: Trờm: Thừa ra, trùm lên cái khác. Tóc trờm quá tai, Vung trờm miệng nồi”. Đây là “chờm” kia mà ? Cách giải thích của Nguyễn Đức Dương không thể đứng vững, bởi nội dung tục ngữ chẳng liên quan gì đến chuyện xây dựng tường vách. Đại Nam Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của) giải thích từ chờm: “Chờm:  nhảy dựng, nhảy xơm mà chụp... Ngựa chờm- Ngựa dựng lên mà chụp”. Và xin tham khảo Việt Nam tự điển giải nghĩa một số từ có trong câu tục ngữ đang bàn: Chờm: Cũng như chồm (...) Móng: Móng chân móng tay, móng lừa móng ngựa (...) Chấn: Xén, cắt bớt đi: Chấn móng ngựa”. Như vậy, từ chỗ lầm lẫn “chờm” (động từ) với trờm (tính từ) rồi lại giảng sai nghĩa từ vựng của “chờm”, Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương đã cho cái móng ngựa đi xa cả ngàn dặm rồi biến thành cái...móng nhà (!) Câu Đừng chờm mà có ngày chấn móng theo nghĩa đen là lời đe nẹt đối với con ngựa bất kham: Đừng nhảy chồm lên mà có ngày bị chấn (cắt, xén) bớt móng đi (do nhảy chồm nhiều móng bị bè, bẹt ra). Hiểu theo nghĩa bóng: đây là lời răn đe, cảnh cáo đối với kẻ ương bướng, ưa phá phách, sẽ có ngày tự mình làm hại mình.
Gà kị hổ mang; lúa kị màng rạp
   Gà là giống rất kỵ rắn hổ mang (tới độ dễ bị chột đi sau khi bị giống rắn ấy “thổi”); lúa là giống rất kỵ màng rạp (tới độ khó mà trổ nổi sau khi bị lũ rầy ấy ập tới hút nhựa)
   -Nguyễn Đức Dương chú thích: “Màng rạp dt. Tên dân gian hay dùng để chỉ giống rầy chuyên hút nhựa từ lá lúa khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng”.
Giải thích như vậy là không hiểu tập tính sinh trưởng và sự gây hại của con sâu rầy thế nào. Con rầy không bao giờ "hút nhựa từ lá lúa". Vì nhựa (chất dinh dưỡng của lúa) không tập trung ở lá mà ở thân, bẹ lúa. Thứ hai “lũ rầy” không “đánh tập kích” kiểu “ập tới hút nhựa” giống như đàn chim mà chúng di trú ngay tại ruộng, đẻ trứng, sinh sôi nảy nở, lứa nọ gối lứa kia (gọi là rầy gối lứa) và thi nhau chích hút ở phần thân dưới gốc lúa. Thế nên khi phun thuốc diệt rầy, người ta phải rẽ lúa thành băng, đưa trực tiếp vòi phun xuống gốc lúa để thuốc tiếp xúc trực tiếp với con rầy chứ không phun trên bề mặt của lá lúa. Nếu bị rầy hại nặng ở thời kỳ nào, cây lúa sẽ bị chết khô giống như hơ vào lửa (gọi là cháy rầy). Đâu phải chỉ “khiến lá bị đen đi và không sao làm nổi đòng” hay  "khó mà trổ nổi" như cách giải thích của nhà ngữ học. Còn cái thứ hại mà “khiến lá bị đen đi” chính là do giống rệp muội đen chứ không phải rầy. Rệp chích hút nhựa cây, chất thải của chúng tiếp tục được một loại nấm cộng sinh tạo thành lớp phấn màu đen phủ kín lá cây, nên gọi là rệp muội đen. Và rệp muội đen thường gây hại trên cây trồng cạn như: cây ăn quả, mía, chuối, cam quýt ...chứ không phải cây lúa nước.
Mài mực dỗ con: mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) dỗ con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đánh giặc.
Mài mực ru con, mài son đánh giặc
Mài mực (nho là việc dễ làm còn hơn cả) ru con; mài son (cục là việc khó làm còn hơn cả) cầm quân đi đánh giặc.
-Nguyễn Đức Dương giải thích câu này không đến nỗi sai lạc nghiêm trọng  như GS Nguyễn Lân: Mài mực ru con, mài son đánh giặc. Nói các ông đồ ngày xưa ngày thường ngồi dạy học đồng thời giúp vợ làm việc vặt trong nhà, nhưng khi có giặc thì tham gia phục vụ quân sự” (Từ điển Thành ngữ tục ngữ Việt Nam-NXB Văn hóa thông tin-1989) Nhưng soạn giả Nguyễn Đức Dương  lại mắc phải cái sai kiểu khác.
Xin hỏi, trẻ nhỏ mà quấy khóc, dỗ được nó nín, ru cho nó ngủ đâu dễ tới mức có thể đem so sánh với những việc làm dễ nhất trên đời ? Tục ngữ cũng đâu nói “dễ làm còn hơn cả” ru con, hay “khó làm còn hơn cả” đánh giặc. Hơn nữa, mài mực nho đâu có dễ ?
Câu tục ngữ “Mài mực ru con, mài son đánh giặc” được diễn giải là: Mài mực phải mài nhẹ nhàng giống như ru con (hoặc dỗ con); mài son phải mài mạnh mẽ giống như đi đánh giặc. Bởi vì, mực tàu đóng thành thỏi rất rắn, nhưng khi mài lại không được phép mạnh tay. Nếu sốt ruột, mài mạnh tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược lại, nếu mài nhẹ nhàng, từ từ, êm ái (như “ru con”) mực trong thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ mực mịn màng, sóng sánh, khi viết đầu bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét bút không bị xơ, cứng, mặt chữ bóng, đẹp. Còn đối với mài son. Xưa kia, người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất rắn. Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người ta không dùng son để viết chữ mà chỉ dùng để  phê, khuyên, đánh dấu hoặc đóng ấn, triện. Do đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay mới được (mạnh mẽ như đi “đánh giặc” vậy). Việc mài mực rất quan trọng. Chuyện kể rằng, xưa có người ở làng Hạc Oa (nay thuộc TP Thanh Hóa) chuyên mài mực cho Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh, sau được hàm Cửu phẩm, gọi là ông Cửu Mặc (ông Cửu phẩm mài mực).
Mâm cao đánh ngã bát đầy
Mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau bao giờ cũng đánh bại dễ dàng các mâm cỗ chỉ bày vài ba món dù đĩa nào cũng được đơm rất đầy. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Mâm cỗ bày lắm món bao giờ trông cũng bắt mắt hơn là mâm cỗ chỉ bày vài ba món được đơm đầy”.
-Giải thích như vậy câu tục ngữ trở nên tầm thường quá. Cần chú ý hai khái niệm: mâm caobát đầy. Mâm cao là mâm được dọn ra ở vị trí cao (sang) nhất thường dành cho các vị chức sắc, các cụ cao niên hoặc người được tôn trọng trong làng xã (hay đình đám). Còn bát đầy được hiểu là đồ ăn thức uống không được dọn thành mâm (cỗ) mục đích chỉ cốt ăn uống cho no bụng. Do đó, cái “mâm cao” sang trọng giữa làng vẫn được người ta thích hơn là cái bát đầy ở xó bếp. Vì "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" kia mà ! Dân gian còn có câu: "Mâm cao, cỗ đầy", nghĩa là được cả danh và lợi: vừa sang trọng về vị trí, vừa thịnh soạn về các món ăn. Chữ "mâm cao" ở đây chính là mâm cao trong câu "Mâm cao đánh ngã bát đầy" chứ không phải là "mâm cỗ bày lắm món đặt chồng lên nhau" như cách giải thích của nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương.
Mẻ không ăn cũng chết
Mẻ mà chẳng  ăn thì cũng chết (nên có để dành được đâu mà cố để giành) Hay dùng để khuyên mọi người chớ có dè sẻn những thứ không thể để giành được mà uổng công.
-Thực ra ở đây là mẻ không được ăn chứ không phải không ăn đến mẻ. Mẻ không phải là loại gia vị thiết yếu. Cho nên người ta chỉ nuôi mẻ bằng cơm nguội, cơm thừa, thậm chí cơm đã có mùi thiu mới đem cho mẻ (ngày xưa hiếm lương thực). Nếu thừa cơm thì cho mẻ ăn, không thừa thì thôi. Thế nên có câu thành ngữ Coi như mẻ (xem thường, xem khinh ai đó giống như mẻ). Có vẻ như mẻ thật dễ tính, ăn cũng được, không ăn cũng không sao. Tuy nhiên, thực tế, nếu mẻ không được ăn trong thời gian dài, lọ mẻ hết chất tinh bột để vi khuẩn gây men hoạt động thì mẻ cũng chết như thường. Câu tục ngữ trên đề cao tầm quan trọng nhu cầu ăn uống của tất cả mọi sinh vật. Ai cũng phải ăn uống mới duy trì được sự sống. Vì đến dễ tính như mẻ kia không ăn cũng chết cơ mà !             
Mồ cha chẳng khóc khóc đống mối; mồ mẹ chẳng khóc khóc bối bòng bong.
Mồ cha chẳng khóc, lại khóc mấy nấm đất do mối đùn; mồ của mẹ chẳng khóc, lại khóc mấy cái búi bòng bong. Hay dùng để chê trách những kẻ quá tin vào lời đám thầy địa lý/thầy cúng tới độ chỉ đi than khóc các thứ vớ vẩn, mà chẳng thèm ngó ngàng gì tới mồ mả của cha mẹ mình.
-“Bòng bong” ở đây được nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương chú thích là “búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết".
Nếu chỉ dừng ở việc diễn giải tục ngữ thì đúng. Nhưng thêm mấy dòng chú thích lại trở thành sai. Đũa tre cắm trên bát cơm cúng gọi là "đũa bông" chứ không phải là “bòng bong”. Có một loại gọi là bòng bong là phoi tre (kiểu như phoi bào nhưng dài mà mảnh hơn, quăn hơn) do người ta vót nan tre, nứa để đan đồ đựng rồi vò thành đống. Có câu "Rối như búi bòng bong" cơ mà ! Mấy cái xơ của đũa tre vót ra tuy cong tít nhưng một đầu vẫn dính vào chiếc đũa nên xơ nào ra xơ ấy chứ đâu có rối ? Còn bòng bong trong câu tục ngữ lại là một loại dây leo, hay mọc ở các bụi rậm, mầu nâu, mảnh như sợi miến mà dai, quấn nhằng nhịt vào nhau. Câu “Rối như bối bòng bong” cũng được dùng để chỉ loại bòng bong này.
Trở lại với câu tục ngữ. Cái tổ mối đùn nó lùm lùm gần giống như một nấm  mồ vô chủ. Còn cái bụi rậm nhằng nhịt những búi (bối) bòng bong cũng tựa như một ngôi mộ bịt thất lạc, lâu ngày hóa hoang rậm. Thế nên, ông thầy đi tìm mộ mới chỉ vào đó để người ta khóc lóc, khấn vái, vì cứ ngỡ mộ tổ tiên ông bà bấy lâu không ai chăm sóc. Còn nếu khóc búi “bòng bong”“búi xơ vót ra từ các đôi đũa tre cắm trên bát cơm cúng đặt trên quan tài người mới chết", thì lúc này con cháu đang than khóc chung quanh làm sao có thể nhầm ra mộ tổ tiên mình bị thất lạc được ?
Một ngôi sao một ao nước Mỗi một ngôi sao hiện ra trên bầu trời đêm hôm trước (là điềm ngày mai trời sẽ trút xuống mặt đất) một ao đầy nước mưa.
   -Rất khó chấp nhận cách giải thích trên của Nguyễn Đức Dương. Bởi theo kinh nghiệm dân gian, nếu đêm hôm trước bầu trời đầy sao là dấu hiệu ngày mai trời sẽ không một gợn mây, nắng chang chang. Đâu có chuyện ngược đời, đêm hôm trước càng nhiều sao, ngày mai càng mưa lớn ?
Vậy, câu tục ngữ của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương được hiểu như thế nào ? Nói như dân gian “đến trời cũng không thể hiểu nổi”. Bởi hình thức chính xác của câu tục ngữ là: Một sao, ao nước. Một sao nghĩa là không có ngôi sao nào. “Một” là từ Hán Việt có nghĩa như sau:
- “ Chìm đắm, bị nước tràn ngập gọi là một. Chết, mất rồi, có khi viết là 歿. Hết, như một thế 沒世 hết đời. || Không có, chế người không biết chữ gọi là một tự bi 沒字碑 ý nói trong lòng không có một chữ nào. Mất tích, như mai một 埋沒 vùi mất, dẫn một 泯沒 tan mất, v.v.” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
- “Một : Không, không có (một hữu 沒有) Chìm, lặn: một nhập thủy trung 沒入水中 Chìm xuống dưới nước;... Ẩn, mất: (xuất một 出沒n hiện” (Từ điển Hán Việt - Trần Văn Chánh, lược trích)
 Nghĩa của từ “một” trong Hán văn là như vậy. Thế nhưng trong ngôn ngữ hàng ngày, hoặc câu kết hợp Hán + Nôm, người ta có dùng “một” với nghĩa là không có, ẩn giấu, chìm lấp, mất  không ? Thưa là có:
- Đại Nam quấc âm tự  vị của Huình Tịnh Paulus Của : “Một 歿. Chết, mất: (...) “Làm tờ một hạ: làm giấy khai về sự bị ăn trộm, ăn cướp, cho làng làm chứng”.
- Việt Nam tự điển - Hội Khai Trí Tiến Đức : “Một mất (không dùng một mình) một tích, mai một. Một thú: mất thú: đi chơi không có bạn thật là một thú”.
Kết luận: từ “một” trong câu tục ngữ Một sao, ao nước được hiểu là vắng, không có, chìm mất, ẩn mất. Tục ngữ dùng “một” với ý là sao trời bị chìm lấp, bị che lấp đi bởi mây đen. Một sao, ao nước được hiểu:  Nếu sao đêm bị mây đen che lấp hết thì ngày mai mưa to, ao chuôm đầy nước. (Dị bản nhìn sao để đoán thời tiết: Đông sao thì nắng, vắng sao thì mưa; Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa).
Như vậy, do người sưu tầm (hoặc chính do Nhà ngữ học) không hiểu  tục ngữ “Một sao, ao nước” là gì nên tự ý chữa “một” (tính từ), thành “một” (số từ) và thêm ngôi cho "sao": “Một ngôi sao, một ao nước". Thế nhưng tục ngữ chẳng những không dễ hiểu mà trở nên bế tắc về cách hiểu. Cuối cùng soạn giả từ điển giải thích theo kiểu ngược đời, bất chấp thực tế khách quan.
Lắm thầy rầy ma
Càng có lắm thầy (cúng) bao nhiêu thì lũ ma càng kéo tới quấy rầy bấy nhiêu. Hay dùng để khuyên mọi người chớ có tin những lời nhảm nhí của đám thầy cúng về ma quỷ (vì đó đều là những trò lừa đảo chỉ cốt moi tiền).
Lắm thầy thối ma.
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu. Hay dùng để nhắc mọi người là chớ có tin vào các trò chữa chạy của đám lang băm mà dễ bị mất mạng.
Lắm thầy thối ma; lắm cha con khó lấy chồng
Càng có lắm thầy (lang) bao nhiêu thì các con bệnh càng dễ hóa thành ma thêm bấy nhiêu; càng có lắm bậc làm cha (dự phần vào việc chọn chồng cho con) bao nhiêu thì các con càng khó lấy chồng thêm bấy nhiêu.
-Hai dị bản “rầy ma”“thối ma” là đồng nghĩa. Nhưng thật khó hiểu, “rầy ma”(lưu ý: khác ma rầy) được soạn giả giải thích là do “thầy cúng”“lũ ma kéo tới quấy rầy”, còn “thối ma”lại được giải thích là do “thầy lang” nên“các con bệnh dễ hóa thành ma”. (Con bệnh dù nặng đến mấy, khi chưa chết cũng không thể gọi là ma được). Và điều quan trọng cả hai cách hiểu này đều sai.
   Câu Lắm thầy rầy ma, hay Lắm thầy thối ma đều liên quan đến cùng một “thầy” đó là thầy cúng. Nghĩa đen được hiểu: khi một người chết (không phải con bệnh như cách hiểu của NĐD) nằm đó, nếu để cho nhiều thầy cúng xem ngày giờ đưa ma, hay chọn huyệt để táng sẽ rất phiền hà. Vì thầy này nói được, thầy kia nói không, lắm ý kiến khác nhau, hậu quả người chết cứ nằm đó, muốn yên thân, mồ yên mả đẹp cũng không xong. Rầy ma là như thế. Thậm chí khi thầy phán chưa chọn được giờ tốt, ngày tốt thì người chết cứ nằm đó đợi, đến mức xác chết bắt đầu phân hủy (thối) còn chưa được chôn. Thối ma là như vậy.
Đất sỏi có chạch vàng
Đất chỉ toàn là sỏi với đá, nhưng sinh sống bên dưới lại là những con chạch bằng vàng.
-Có ai đúc chạch “bằng vàng” yểm dưới đất sỏi chăng ? Xin thưa“Chạch vàng” ở đây không phải là “những con chạch bằng vàng” mà là những con chạch béo vàng-thứ chạch thường sinh sống dưới đất bùn có nhiều màu mỡ. Ở đây, đất sỏi mà lại vẫn có chạch vàng như thường.Ý dân gian muốn nói đến vùng đất tuy khô cằn, nghèo khó nhưng lại sinh ra những nhân tài kiệt xuất, hoặc sản vật nổi tiếng.
Trong Từ điển tục ngữ Việt có những câu soạn giả suy diễn sai hoàn toàn. Ví dụ:
Kẻ ăn rươi người chịu bão
Kẻ muốn ăn rươi nhưng lại bắt người khác phải dầm mưa bão để vớt về cho mình. Hay dùng với ẩn ý: nh. Ngồi mát ăn bát vàng.
-Không ai đi “dầm mưa bão để vớt rươi” cả. Rươi là giống rất mẫn cảm với thời tiết, nên bao giờ nó cũng từ dưới bùn sâu chui lên trước khi thời tiết thay đổi. Giống rươi lại phải thật tươi ăn mới ngon. Thế nên, bắt đầu có rươi là dân đồng sác nhao ra đồng vớt ngay. Nếu gặp phiên chợ thì gánh chạy cho nhanh để kịp bán khi rươi còn sống, bò lúc nhúc. Bằng không cũng phải gánh vội đi bán ở các làng xã lân cận cho kịp. Khi rươi ươn, vỡ bụng, chảy gạch ra coi như hỏng. Thường người ta vớt được rươi lên, hoặc mua rươi về nấu ăn xong, nửa ngày, hoặc một ngày sau đó mới nổi mưa gió trái mùa như hiện tượng bão, gọi là “bão rươi” hoặc “mưa lấp lỗ rươi”. (Câu đố về rươi: Mỗi năm vài bận ra chơi, Làm cho lở đất long trời mới nghe). Chỉ ít dân đồng sác và mấy xã lân cận là được ăn rươi (do số lượng có hạn và rươi khó bảo quản để vận chuyển đi xa bán). Thế nhưng cả tỉnh, cả huyện phải chịu chung cảnh thời tiết mưa bão ấy. Kẻ ăn rươi người chịu bão là như vậy.
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng
Quạ muốn ăn dưa nhưng lại bắt cò phải dãi nắng (để kiếm dưa về cho mình). Hay dùng với ẩn ý: nh. Kẻ ăn  rươi, người chịu bão.
-Trong thực tế nghĩa đen, làm gì có chuyện con quạ bắt con cò phải dãi nắng “để kiếm dưa về cho mình” ? Không nên suy diễn thay cho lời giải thích câu tục ngữ.
Quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu…(vào mùa mít rừng chín, chúng khoét vỏ, chui đầu vào ăn, con nào con nấy đầu trọc lóc do bị nhựa mít “vặt” hết lông). Chìa khóa để giải mã câu tục ngữ trên là “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò).
Như vậy, hai câu “Kẻ ăn rươi, người chịu bão”“Quạ ăn dưa, bắt cò dãi nắng” ý nói: lợi ích hoặc hoàn cảnh thuận lợi của (nhóm) người này, đôi khi (vô tình) gây trở ngại, khó khăn đối với (nhóm) người khác. Ví như mùa hè nắng nóng kéo dài, dân kinh doanh du lịch biển “hốt bạc”. Trong khi người thường hoặc nông dân cày cấy lại  “lãnh đủ”. Không thể hiểu và dùng với ẩn ý “Ngồi mát ăn bát vàng” như Nguyễn Đức Dương giải thích.
Quan họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch
(Thết các liền anh liền chị trong làng) quan họ thì nên dùng thịt gà; (làm giỗ cho cha thì nên dùng thịt ếch).
-Cách giải thích sai lầm nghiêm trọng. Trong các lễ vật dâng cúng, con gà được xem là con vật hiến tế rất quan trọng. Thế nên, không có gà cúng, người ta còn có thể thay bằng quả trứng gà. Gà hay xôi gà là lễ vật sang trọng đối với cả người sống và người chết. Trong khi đó mặc dù thịt ếch thơm ngon, trắng như thịt gà, dân gian hay gọi là gà đồng (gọi theo tên chữ của ếch là điền kê田雞). Nhưng thịt ếch đâu có được coi là loại đồ ăn “ra tấm, ra miếng”; càng không phải là phẩm vật dâng cúng thể hiện sự kính trọng đối với tiền nhân. Do đó, giảng rằng: “(làm giỗ cho cha) thì nên dùng thịt ếch” là cách giải thích liều, không hiểu gì về phong tục tập quán của người Việt. Mặt khác các liền anh, liền chị trong làng quan họ thì liên quan gì đến giỗ cha ?
Thực ra, câu tục ngữ này có hình thức là: Con họ thịt gà; giỗ cha thịt ếch. Cách phát âm của người Thanh Hóa, con phát âm gần giống như cu...ân (quân). Con họ tức là con cháu trong họ. Vì không hiểu con họ là gì nên người sưu tầm tục ngữ (hoặc soạn giả) chữa “quân họ” (con họ) thành “quan họ” rồi giảng sai hoàn toàn nội dung. Câu tục ngữ đang bàn nói cách cư xử trái với lẽ thường, đáng phê phán: Đối với hạng con cháu trong họ thì làm thịt gà thết đãi; đến khi giỗ cha mình (ngày rất quan trọng) lại làm thịt ếch để cúng. Dị bản: Có khách làm thịt kha (gà) giỗ cha làm thịt ếch.
Mưa rừng cọ; gió rừng thông
(Gặp) mưa trong rừng cọ cũng như gió trong rừng thông (thì chớ có lo ướt cũng như lo lạnh vì đã được cọ cũng như thông che chắn hết cho rồi).
-Giải thích như vậy là không hiểu.Thực ra, trong rừng cọ, chỉ cần mấy hạt mưa đã nghe tiếng lào rào, lộp bộp rất lớn do hàng ngàn giọt mưa rơi trên tàu lá cọ (lá cọ bản rộng, dày, cứng). Và trong rừng thông, chỉ cần thoảng làn gió đã nghe vi vút hoặc tiếng rít lên như muôn ngàn ngọn roi quật vào không khí, (do thông là cây lá kim). Thế nên thơ, nhạc hay ví thông reo, thông hát, thông ru là vậy. Câu tục ngữ trên đưa ra nhận xét: Tiếng mưa trong rừng cọ nghe rất lớn, tiếng gió trong rừng thông nghe rất mạnh (so với thực tế).
Nuôi lợn ăn cơm không; nuôi tằm ăn cơm nhộng
Nuôi lợn (chẳng mấy khó nhọc nên) chỉ được ăn cơm không có thức ăn; nuôi tằm (vốn khó nhọc) nên sẽ được ăn cơm với cả nhộng nữa.
            -Ý dân gian không ám chỉ nghề nào vất vả, khó nhọc hơn nghề nào, mà ý nói sự khác biệt giữa hai nghề. Nghề nuôi lợn giống như ống tiết kiệm, dồn mãi tới lúc đầy (lợn béo) mới xẻ thịt hoặc bán một lần duy nhất, không thể mỗi bữa xẻo ra vài miếng thịt mà nấu ăn dần. Tuy nhiên, đối với nghề nuôi tằm, mỗi lứa tằm vài ba tháng, tằm kéo kén ươm tơ có nhộng ăn, người nuôi được thu sản phẩm phụ, trong khi nuôi lợn ngày xưa cả năm mới được một lứa. Nghĩa là mối lợi của nghề nuôi tằm có thể khai thác dần, rải rác mà không cần phải đợi đến lúc ươm, dệt thành tơ lụa mới có.
Rau cải làng Tiếu nấu nước điếu ăn cũng ngon
Rau cải (trồng ở ) làng Tiếu (vốn ngon tới độ chỉ) nấu với nước điếu thôi ăn vẫn cứ thấy ngon.
-Cách hiểu và diễn giải của soạn giả khi dùng “chỉ”, “thôi” trong câu khiến bạn đọc hiểu lầm “nước điếu” là loại nước lã bình thường (nấu món canh suông) nhưng khi có rau cải làng Tiếu để nấu thì ăn vẫn cứ thấy ngon. Tuy nhiên, nước điếu có mùi hôi, khắm, vị đắng chát rất khó tả. Lỡ đánh đổ chút ít ra nhà, đến cả người vốn nghiện thuốc lào cũng không chịu nổi cái mùi của nó. Nước điếu độc nên người ta còn dùng để tắm trừ ghẻ cho chó. Thế mà rau cải làng Tiếu thơm ngon, ngọt lành tới độ có thể hóa giải được cả nước điếu, khiến khi nấu canh rau cải với thứ nước “kinh khủng” đó, ăn cũng (vẫn) ngon. Như thế câu tục ngữ phải được diễn giải là: Rau cải làng Tiếu dẫu có nấu với nước điếu ăn vẫn ngon.
Thông thường, một câu tục ngữ có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa nào cũng phải đảm bảo tính biện chứng. Trong Từ điển tục ngữ Việt, soạn giả Nguyễn Đức Dương có hẳn một hạng mục (được ghi ngoài bìa sách) là “dịch” một số câu tục ngữ gốc Hán. Soạn giả không đưa ra phần nguyên văn chữ Hán, cũng không chú thích nghĩa từ vựng trong câu dẫn đến sai sót khá nghiêm trọng bởi hiện tượng đồng âm, dị nghĩa; đồng tự, đa nghĩa.Ví dụ:
Kỵ hổ nan hạ
Tránh mặt hổ thì khó mà hạ sát được nó.
-Thay vì dùng chữ kỵ   cưỡi, soạn giả lại đưa ra chữ “kỵ” kiêng tránh, sợ; chữ hạ với nghĩa xuống, lại được chọn hạ với nghĩa“hạ sát”. Thoạt nghe cũng có lý. Thế nhưng, giết hổ mà chọn cách đối mặt với hổ là hạ sách, là bất đắc dĩ. Người ta có thể “tránh mặt hổ” mà vẫn giết được hổ dễ dàng bằng cách đặt bẫy, đánh bẫy, nấp bắn. Vậy soạn giả nghĩ sao ? Cần trả lại nghĩa vốn có (đã đi vào lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian) là:Cưỡi lên lưng hổ thì khó xuống (hay nói Thế cưỡi hổ, hoặc Ở thế cưỡi hổ).
Lão bất tử thành tặc
Già rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc. Hay dùng để chê những kẻ đã già mà chẳng chịu sống yên phận, nên hay gây ra bao thứ rắc rối cho con cháu trong nhà.
   -Thực ra chữ tặc ở đây không có nghĩa là “giặc” mà là ranh, tinh quái, gian xảo, xảo quyệt. Ví dụ “Lão thử chân tặc老鼠眞賊 = con chuột này ranh ma lắm" hoặc “Giá nhất khỏa nhân chân tặc 這一夥人眞賊 = bọn này xảo quyệt lắm ( Xem Tự điển Hán Việt - Trần Văn Chánh -NXB Từ điển bách khoa-2011). Mặt khác chữ “lão” không chỉ có nghĩa người già, mà còn chỉ chung các giống loài khi sống lâu thường trở nên khôn ngoan, tinh quái. Câu này dịch nghĩa là: Già mà không chết sẽ thành kẻ tinh quái, dịch thoát thành tục ngữ là: Sống lâu thành xảo quyệt; gần nghĩa câu tục ngữ Việt Mèo già hóa cáo (con mèo sống lâu thường mang bản chất của một con cáo khôn ngoan, tinh quái). Giải thích như nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương “Già rồi mà chẳng chịu chết đi cho yên phận thì dễ hóa thành giặc” vô tình đi ngược lại tinh thần “Kính lão đắc thọ”, dễ khiến các cụ cao niên buồn lòng.
Lộng giả thành chân
Cái giả hễ cứ được mặt sức hành hoành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân.Hay dùng để nhắc mọi người đừng để cho cái giả mặc sức hoành hành nhằm tránh xảy ra tình trạng thực giả lẫn lộn.
-  Chữ lộng ở đây có nghĩa là giở thủ đoạn, lại được soạn giả hiểu nôm na là lộng hành rồi giải thích “Cái giả hễ cứ được mặt sức hoành hành thì dần dà rồi sẽ hóa thành cái chân”. Nghĩa này có thể chấp nhận được.Tuy nhiên, câu tục ngữ phải chữa lại là “Giả lộng thành chân” mới đúng với ngữ pháp tiếng Hán. Bởi vậy, câu tục ngữ “Lộng giả thành chân” phải được hiểu là: Dùng thủ đoạn biến giả thành thật. (Có khi chữ “lộng” cũng được dùng với nghĩa “đùa cợt”: Vờ đùa cợt để biến giả thành thật).
Lương y đa kỳ tật
Các viên thầy thuốc giỏi đa phần đều có lắm thói quen kỳ lạ.
-Chữ “tật” nghĩa là bệnh, “kỳ tật” 奇疾 bệnh lạ, bệnh nặng, bệnh hiểm ác, nhưng bị soạn giả hiểu nôm na “kỳ tật”“thói quen kỳ lạ”.
Thực tế, có nhiều thầy thuốc giỏi, chữa bệnh cho nhiều người nhưng chính mình lại hay bị những chứng bệnh nan y, bệnh lạ mà bản thân không khám, chữa cho mình được. Thế nên, câu thành ngữ này phải được dịch là: Thầy thuốc giỏi hay bị chứng bệnh (lạ) hiểm ác, nói đến sự trớ trêu của nghề thầy thuốc, “Dao sắc không gọt được chuôi”.
Mệnh do ngã lập; phúc tự kỷ cầu
Số mệnh là do tự mình định đoạt lấy (chứ đâu phải do trời sắp xếp sẵn); phúc đức là do mình tự cầu xin lấy (chứ đâu phải do trời tự ý ban cho).
   -Nếu nói “phúc đức là do mình tự cầu xin lấy” chỉ có nghĩa không cần người khác cầu xin hộ, nhưng vẫn có nghĩa là bản thân mình không tự quyết định được mà phải đi cầu xin người khác mới có.
Như vậy, chữ “cầu” ()ở đây phải được hiểu nghĩa là tìm, không thể  hiểu nghĩa là cầu xin như dịch giả nhầm lẫn. Câu tục ngữ được dịch là: Số mệnh tự ta định đoạt, hạnh phúc tự mình tìm lấy.
Nhìn chung, với sách biên soạn, (đặc biệt là lĩnh vực tục ngữ, thành ngữ) khó tránh khỏi sai sót. Tuy nhiên, tỉ lệ sai sót, mức độ sai sót, hạn chế (số lượng hàng trăm câu) như Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học TS Nguyễn Đức Dương là quá lớn. Nếu đọc kỹ, chúng ta sẽ còn nhận thấy không ít lỗi về từ vựng, cách giải nghĩa, cách diễn đạt, từ ngữ,v.v...mà khuôn khổ bài viết này không thể nêu hết (*). Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương nhiều lần kêu gọi các nhà biên soạn sách giáo khoa đưa “di sản tục ngữ” vào nhà trường (xem Bài “Sao không đưa tục ngữ vào giảng dạy ở bậc tiểu học” - Báo Thanh Niên). Đề xuất này không có gì sai. Tuy nhiên, nếu các em học sinh tiếp thu “di sản tục ngữ” thông qua “kênh” Từ điển tục ngữ Việt của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương với những “sai lệch” như trên thì thật nguy hại !
                                                                                     H.T.C