Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

CHUYỆN LÀNG VĂN

Mình hay lang thang hầu chuyện vặt dân viết lách. Chuyện nghe lỏm, nhiều khi cũng bổ ích.
Một lần ướm hỏi nhà văn Nhật Tuấn, vì biết ông có cả một kho khổng lồ...
Rất vui vì được ông san sẻ." Trí khôn bác để ở đâu? ' chưa "công bố", ừ thì "công " gì cũng được! Miễn là vui.... ngày nghỉ Tết.

               NHẬT TUẤN

    Trí khôn
       các bác
             để đâu ?
    

                         

                             TIỂU LUẬN VĂN HỌC


      
                      






                         


             
                                       
                                                                     
                     
Dân gian có chuyện một con hổ cứ lẽo đẽo theo bác thợ cày đang làm ruộng hỏi bằng được :” Trí khôn mày để ở đâu ?”. Bác thợ cày đáp :” Trí khôn tao để ở nhà. ”- “ Về lấy tao coi đi.”- “ Không được, tao về mày ăn thịt con trâu của tao thì sao, phải để tao trói lại đã…”. Chú hổ bùi tai bằng lòng cho bác thợ cày trói lại. Trói hổ xong , bác thợ mới cầm cày phang túi bụi, vừa phang vừa la lớn :” Trí khôn của tao ở đây …”.
Vậy còn  trí khôn các bác nhà văn ta để đâu ?
Xin bắt đầu từ nhà văn Nguyễn Công Hoan, người được bác Tô Hoài thổi lớn  :”Truyện ngắn , truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua hai thời kỳ kháng chiến , tiến vào cách mạng tháng Tám…”.
Ái chà chà, “trái núi biết đi” này tiến vào cách mạng liệu có từ Tam Đảo , Ba Vì  biến thành Everest ?
Trả lời được câu hỏi này không gì bằng những tác phẩm của ông viết sau cách mạng. Tiếc thay, “bệ đỡ văn hoá” lại là cái nền móng cho nhà văn xây nên ngôi nhà  của mình. Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp Sơ học yếu lược (cấp 1 bây giờ), sau đó vào trường sư phạm ra dậy tiểu học tại hầu hết các tỉnh lẻ : Hải Dương, Lào Kai, Nam Định  rồi đảo Trà Cổ ( Mống Cái) …vừa dậy học vừa hoạt động cách mạng khó mà có thời gian, điều kiện mà nghiên cứu,  tự học. Sau năm 1946, ông cũng lên rừng như các văn nghệ sĩ khác , học tập chủ nghĩa Mác và đường lối văn nghệ Diên An là chính, về Hà Nội sau năm 54 cũng vậy, cũng miệt mài vào chủ trương chính sách của Đảng , các trào lưu tư tưởng và nghệ thuật hiện đại chỉ là vầng ánh sáng mờ nơi  bên kia đại dương. Văn chương Nguyễn Công Hoan bởi thế trở nên “phú quý giật lùi” so với thời ông viết những “Bước đường cùng”, “Cô giáo Minh”, “Kép Tư Bền”,” Lá ngọc cành vàng” …và hàng trăm truyện ngắn ghi lại được phần nào bộ mặt xã hội thời đó.
Từ sau 1945 ( Nguyễn Công Hoan mới 42 tuổi), “tiến vào cách mạng tháng Tám” rồi “vượt qua hai thời kỳ kháng chiến” đánh Pháp và đánh Mỹ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan cứ cạn mực dần . “ Mở hàng” cho cách mạng, năm 1946 , NCH viết tiểu thuyết “Đồng chí Tơ”, kể một anh tù hình sự, trong nhà giam được giác ngộ trởû thành người cách mạng, viết dở tới mức chỉ in 20  kỳ trên báo Sao Vàng rồi biến mất tiêu, không tái bản, cũng không ai nhắc tới . Sang năm 1947, NCH viết tiểu thuyết “Xổng cũi” thuộc tủ sách Vệ Quốc Đoàn, cũng không để lại dấu vết gì trên chặng đường sáng tạo. Rồi mãi tới năm 1952, NCH mới lại cho ra lò tiểu thuyết “ bà Năm di cư”, năm 1955 tập truyện ngắn “ Nông dân và địa chủ” mà chỉ nội hai cái tựa  cũng đủ biết nó chết yểu. Năm 1963, NCH xuất bản “ Đống rác cũ tập1 “ viết về mặt trái của quan lại phong kiến, sách ra lập tức bị thu hồi, không phải vì “nghĩ ra ngoài những điều Đảng nghĩ”  mà chính vì dơ dáy,  “tự nghiên chủ nghĩa” quá. Sau này, 1988, cả hai cuốn “Đống rác cũ 1 và 2 “ đều được xuất bản và cũng chẳng gây được tiếng vang nào vì …dở quá. Bản kê “sáng tác phẩm” của Nguyễn Công Hoan sau nửa đời đi theo cách mạng chỉ có bấy nhiêu còn lại toàn những “sổ tay văn học”,” kinh nghiệm sáng tác”, “nghĩ gì viết nấy”…
Sau năm 1975, Nguyễn Công Hoan có viết “di bút” :” Hiện nay , truyện ngắn viết dài mà truyện dài cũng viết dài. Rõ ràng cái viết dài này có dụng ý là khoe vốn sống. Kiếm được bao nhiêu vốn , khi cầm bút thì lôi tiệt ra. Hàng trang- hàng tràng. Vốn bị vét đến tận đáy . Thứ vốn sống …sượng cũng bị lôi ra tuốt…”
Than ôi, những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan viết sau chuyến đi thăm “miền nam hoàn toàn giải phóng “ lại rất tiêu biểu cho  “thứ vốn sống…sượng” mà ông vừa cao giọng lên án.
“ Trên chuyến xe lam” (truyện ngắn 9-1975) đang bon bon về Sàigòn có  “đại tá Đôn trong nguỵ quân của tên đại Việt gian Nguyễn văn Thiệu”. Ông Đôn đang lo “đi trình diện sẽ bị bắt, ngồi tù và sẽ phải “tẩy não” vì thế ông nhất quyết trốn và tập hợp chiến hữu âm mưu lật đổ cách mạng.
“May thay” chiếc xe lam ghé lại bến đón khách …một anh bộ đội. Thế rồi trên đường , anh này kể chuyện “ xung phong đi đánh Mỹ chứ không phải bị bắt lính” rồi anh lại  đọc cả …. tiểu thuyết Pháp nữa làm một bà mẹ trên xe nắc nỏm :” Cụ Hồ khéo dạy người thật. Tôi thấy anh bộ đội ngoài ấy cũng như quân giải phóng trong này, anh nào cũng hiền lành tử tế”.
Sự việc chỉ có nhiêu đó đập vào mắt ông đại tá làm ông “tỉnh ngộ”, thức tỉnh   chính nghĩa cách mạng đến mức sáng hôm sau ông đi trình diện sớm, dứt khoát từ bỏ ý định trốn cải tạo làm phản loạn. Truyện ngắn này nếu che đi tên tác giả, người đọc sẽ tưởng là một cây bút “thông tin văn hoá phường” chứ chẳng ai ngờ người viết nó  lại là một nhà văn lớn như “ Tản Viên- Ba Vì”.
Sang truyện ngắn “ Nỗi day dứt của một đại tá tỉnh trưởng nguỵ quyền”, vốn sống của nhà văn NCH  lại càng…kinh dị hơn. Ông đại tá này ở lớp cải tạo “học đến bài thứ bảy, anh ta càng thấy sỉ nhục về cái tội làm tay sai cho đế quốc Mỹ xâm lược”. Nỗi xấu hổ này làm ông “ mất ngủ, ít nói, ít cười…vắt tay lên trán, thở dài thườn thượt…”Thế rồi không chịu nổi nỗi ăn năn, ông ta phải gặp cán bộ để thổ lộ “ Tôi biết là bọn Mỹ-Nguỵ đã đào tạo khiến chúng tôi không còn là người , nhưng cách mạng giáo dục để chúng tôi trở lại thành người . Tôi vô cùng cảm ơn cách mạng…” Tiến lên ta quyết tiến lên làm người …cách mạng, ông đại tá lại thú nhận :” Hồi tôi làm tỉnh trưởng tỉnh XX, thì trong những ngày cách mạng đến giải phóng thị xã, tôi và anh Xiêm cũng học lớp cải huấn này …đã lấy hết công quỹ gồm 13 triệu đồng”. Nay xin “ lập công chuộc tội ” với cách mạng, ông đại tá đề nghị  :” Lấy uy thế tỉnh trưởng, tôi chỉ chia cho Xiêm 5 triệu, tôi giữ 8 triệu. Tám triệu không nuôi sống đời tôi nhưng giữ nó , tôi bị day dứt suốt đời. Tôi cần rũ sạch vết  nhơ , vết ô nhục ấy …tôi xin phép được hiến cho chính phủ số tiền 8 triệu đồng …” Cán bộ còn đang tuyên dương tinh thần “giác ngộ cách mạng qua học tập” thì chợt nghe tiếng gõ cửa cạch cạch . Ai thế ? Tưởng ai hoá ra anh Xiêm, đồng sự với ông đại tá, cũng tìm tới cán bộ để xin nộp lại 5 triệu kẻo nó thành vết nhơ ở trong lòng.
Than ôi, to như trái núi Tam Đảo Ba Vì mà sao đẻ ra hai con chuột nhắt bé xíu thế ? Riêng cái truyện “ông đại tá…”  chẳng phải vốn sống đang còn …sượng , bởi lẽ NCH đã bao giờ đặt chân tới trại tập trung cải tạo mà biết mặt mũi, tâm trạng mấy ông “đại tá tỉnh trưởng” ra sao, chẳng qua ông tưởng tượng vậy thôi . Mà  trí tưởng tượng của ông lại bắt nguồn từ  một hiểu biết quá nghèo nàn.
Sau gần nửa thế kỷ “hành trình tư tưởng”, lẽ ra ông nhà văn phải khôn ra rất nhiều để thấy cái thứ văn chương ‘tuyên truyền” trắng trợn đó là một thứ giả nghệ thuật, mà với nhà văn không gì dị ứng cho bằng sự giả dối. Vậy thì trí khôn của bác ở đâu mà đến nỗi “nhận thức” về “kẻ thù” ngớ ngẩn vậy ?
Ông tiến sĩ văn học Niculin ( Liên xô cũ) ca ngợi nhà văn Nguyễn Công Hoan :” Thời buổi này, phải có lòng dũng cảm không nhỏ, niềm tin lớn lao mới dám bước lên con đường của Ông (Nguyễn Công Hoan). Ông đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng khen ngợi :” Nguyễn Công Hoan là người không viết theo chiều gió, mà viết theo lý tưởng của mình, có nghị lực, có lòng dũng cảm…”.
“ Có lòng dũng cảm” mà lại viết lách ngu ngơ  đến   thế  ư ?
Thì ra trí khôn của bác nhà văn nằm ở …cái gan. Chỉ tiếc cái gan của bác hơi bị bé  nên sự nghiệp văn chương theo cách mạng của bác cũng chẳng có gì là…lớn.



        Chén rượu tình rừng cay đắng lắm



      Vào một  chiều tại khu sơ tán bom Mỹ của Hội nhà văn VN, nữ văn sĩ Nguyễn thị Ngọc Tú đang lúi húi … rán cá- thứ của hiếm,  trước cửa phòng, ngẩng lên chợt thấy bác Nguyễn Tuân đứng lù lù với chiếùc mũ “phớt” và hàng râu muôn thủa. Bác cầm can chỉ chỉ :” Con này  chín non   …Chị lật con kia  lên kẻo cháy…”. Giá như là người khác hẳn đã xơi một chiếc guốc và đuổi đi chỗ khác, nhưng với bác Nguyễn Tuân, nổi tiếng “ ngông” nên chị  Ngọc Tú chỉ cười cười.
Đã có rất nhiều bài viết về cái “ngông” của bác Nguyễn . Sau Cách mạng năm 45, cái “ngông”, cái văn chương “nhâm nhi , tỉ mẩn” trong những “Hương cuội”,” “Thả thơ”,” Đánh thơ”, ”Những chiếc ấm đất”… mang vào sáng tác cho quần chúng công nông binh, chẳng hiểu bác Nguyễn sẽ phải uốn éo ra sao đây ? Thật đáng lo thay.
Sau này, Nguyễn Tuân tâm sự :“Giả sử bây giờ tôi còn trẻ, có lẽ tôi xin đi học ngành y làm thày thuốc  , vì làm cái nghề văn này sợ lắm…”. Sợ thật đấy chứ, đường đường một đấng “ phù thuỷ chữ nghĩa ”, “ ma thuật ngôn từ”, theo cách mạng được đôn lên ghế Chủ tịch Hội Văn nghệ, vậy phải “công nông hoá ngòi bút” sao đây để “lãnh đạo tin cậy”, cho dù trong lớp chỉnh huấn đã bày tỏ lập trường “ rũ bỏ con người cũ” bằng cách …treo cổ mớ bản thảo ngày xưa, từ bỏ “những đứa con tinh thần” vốn làm bác nên danh.
Thế là Nguyễn Tuân xắn tay áo lên “nhả chữ”, mở đầu sáng tác cách mạng bằng tập “ Tuỳ bút kháng chiến” trong đó tiêu biểu là “ Đuốc dân công tiếp vận”. Để tăng khí thế cho bài ký, bác viết : “ Hôm nay tôi kể chuyện một con đường thóc đêm đêm rầm rập bước chân người…bao nhiêu người bần cố nông gánh gạo về ngàn. Thật là vĩ đại. Không biết bao nhiêu là con số…Trên vai mỗi người còn đèo thêm một bó đuốc….Tôi cảm thấy đây là lần đầu tiên , nước Việt nam chúng ta đốt đuốc đi đêm một cách vĩ đại, huy hoàng…”. Thật là vĩ đại, thật là huy hoàng, chỉ tiếc nó mới được hô  lên từ…cổ họng, đại ngôn để xuê xoa cái nghèo cảm xúc. Cũng theo cách đó, ông mạt sát dân “vùng tề” :”Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu nhố nhăng kia lên giời và quét sạch cái không khí dịch tễ của nơi này đi…”, và chửi Pháp :” Chiều tà Việt bắc Đông bắc rừng rực lên những đồn Pháp, chiếu ống nhòm như những mâm cà độc dược, như những kim tự tháp loét ngọn…”  . Không còn “ngông”, cũng chẳng còn “nhâm nhi”, “Tuỳ bút kháng chiến” của  Nguyễn Tuân, “quả mùa đầu” cho cách mạng, sau này được hai Giáo sư “chuyên gia nâng bi” là Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức reo mừng :” Sau Tuỳ bút kháng chiến, ta đã có một công dân Nguyẽn Tuân bên cạnh một Nguyễn Tuân nghệ sĩ, một cán bộ Nguyễn Tuân hoà hợp với một nhà văn Nguyễn Tuân”.
Thế là khỏi lo “con bò trắng răng”, Nguyễn Tuân - chàng lãng tử  ngông nghênh đã bỏ thói “nhâm nhi tỉ mẩn” , mài nhẵn xù xì gai góc, dọn giọng hót được cho bần cố nông nghe, trở thành “nhà văn cán bộ”,  vượt quá yêu cầu của Đảng.
Vậy nhưng ‘cái nết đánh chết không chừa”, trở về Hà Nội sau năm 1954 có rượu tây, có ánh đèn xanh đỏ, có dáng “kiều thơm” …; bệnh “ngông “ trong  Nguyễn Tuân lại tái phát. 
Vậy ông đã “ngông” như thế nào ?
Trong khi cả thiên hạ đang phải gân cổ lên ca bài “ chống chủ nghĩa cá nhân”, làm việc quên mình vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1957, Nguyễn Tuân lại chơi ngông, nhâm nhi, tỉ mẩn luôn một bài… “Phở”. “Thật ra ăn phở cho đúng , đúng cái “gu” của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt  tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở…” Than ôi, cái “ngông của Nguyễn Tuân’ cũng mới ở mức độ vuốt ve con tì con vị, chứ chưa dám “ngông” thở than oán trách gì chế độ, ấy thế mà cũng đã bị ông trùm mác xít Như Phong choang cho một chuỳ trên báo Nhân Dân :” Ở Nguyễn Tuân , ưa phân tích cầu kỳ các cảm giác như vậy không phải chỉ là một phong cách văn chương mà còn là một lối sống ưu du, hưởng thụ mà anh muốn truyền bá. Có đặt cả quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân , mới thấy bài “Phở” hãy còn mang nhiều dấu vết của khuynh hướng nhảm đó…”. Khổ nỗi, nhâm nhi con tì con vị là…nghề của chàng. Thôi thì không cho “nhâm nhi” miếng ăn , miếng uống thì ta “xơi” cảnh vật vậy, so với thiên hạ đang phải nhai “ con người mới xã hội chủ nghĩa” thì chàng vẫn còn…ngông chán.
Thế là cũng năm 1957,  Nguyễn Tuân viết “Cây Hà Nội” : “ Hà Nội của ta rất nhiều me, nhiều sấu với những trẻ em trèo me, trèo sấu ngày xưa. Nhưng bên cạnh những phố trồøng toàn me toàn sấu,còn những cây đứng lẻ tẻ khắp Hà Nội. Hoàng lan, ngọc lan, sữa, long não, gạo, lim , đại , đỗ quyên Nhật…”. Ba hoa về  “cây”, nhưng chàng Nguyễn vẫn không quên  gài một câu xỏ xiên về “người” :” Lắm lúc tôi muốn rộng lượng tặng huân chương cho một vài cái cây thủ đô vì một số công lao của chúng đối với cuộc sống hàng ngày của người Hà Nội. Anh tưởng chỉ có một số người nào mới có công lao thôi sao…Anh họp nhiều quá, lâu quá, cây đẹp không đợi được anh mãi…”. Cái mẹo đó sau này được đúc kết lại thành “thủ pháp nghệ thuật’ có tên là “gài mìn” nhiều năm sau được một số cây bút trẻ học lỏm. Hết “cây” lại đến “hồ”, mượn lời một chị Ba Lan, Nguyễân Tuân mệnh danh “Con hồ Thủ đô” là một …viên ngọc êmơrôt “nằm giữa một cái nền hộp nữ trang bọc nhung xanh hồng, kẻ đường  con cờ…”. “ Êmơrôt” là cái quỷ gì quần chúng công nông làm sao biết ? Thôi thì bỏ qua cái tội quên lời Bác dặn “viết sao cho dễ hiểu”, nhưng cái “lỗi”  “lan man , lẩn mẩn” thì vẫn còn đó. “Một hôm tôi đang nhìn hai cô cân  táo đen táo đo ûbán lẻ, tôi đang nhìn bà quay kẹo bông cho trẻ em, tôi đang nghe cái ông đội mũ rạ rách thuyết minh cho cái ống dòm thời sự chiến tranh của ông đỗ ở xế ga tàu điện cũ bờ hồ, bỗng thấy nhớ mấy cây lộc vừng năm nào vẫn soi bóng xuống hồ…”. Rõ chuyện tầm phào, “mậu dịch viên nhà nước” đâu hết toàn “tả” tư thương để mà nhớ về ‘quá khứ” ? Có lẽ chợt nhận ra  “lỗi” này, Nguyễn Tuân vội vàng bày tỏ lập trường: “ tổ chức tết trung thu Độc lập cho các em thiếu nhi quanh hồ phá cỗ” và rồi hăng lên bốc phét “trong những ngày vui ấy, một anh bạn tôi đã hồi sinh lại  với thời đại đã vứt tõm xuống hồ Hoàn Kiếm một khẩu súng lục, nhất định từ bỏ ý định tự sát vẫn ám ảnh mình, một chị bạn tôi cũng vứt xuống lòng hồ một cái hộp sắt hàn thiếc trong ấy có cả một cuốn nhật ký một người đẹp sắp phát điên…”. Cách mạng cảm hoá người ta ghê gớm chưa, một anh sắp tự tử vứt cả súng, một chị chán đời quăng cả nhật ký xuống hồ. Bác Nguyễn “hư cấu’ thế này đến con nít cũng chẳng tin. Ấy thế rồi để tăng thêm ‘tính cách mạng” cho bài viết, xuê xoa đi những chỗ “tầm phào”, bác Nguyễn lên giọng “chính trị”. Nào  “ Đối với con người Hà Nội, đối với thủ đô năng suất gấp trăm  gấp ngàn thành phố khác trên đất Việt Nam , hồ Gươm như là một  người bạn thân thiết…”, nào  “hồ là lá phổi làm thắm tươi dòng máu đập nhanh của gần nửa  triệu con người thủ đô Hà Nội đang hàn gắn, chắt chiu và vững tâm xây dựng…”, nào ” Với anh chị em tập kết Trị Thiên, Khu năm, Nam bộ, có lẽ hồ Hoàn Kiếm còn thân mật hơn với tất cả chàng  trai và  cô gái sinh trưởng ở Hà Nội…”.Than ôi, giọng văn khinh bạc của bác Nguyễn đâu rồi ? Còn lại một thứ “tả cảnh” của học sinh phổ thông làm luận “ Em hãy tả hồ Hoàn Kiếm. “.
Mạt sát “phong kiến đế quốc” và “ tung hô cách mạng” từ nay đã trở thành cảm hứng  chủ đạo xuyên suốt văn chương chữ nghĩa  của  chàng. Trong “Từ Tân thế giới mà về”, ông tả bà con khi rời Việt Nam:”…ở đâu phe phẩy ngọn cờ vàng ấy thì nơi đó ngày đêm nổi dậy tiếng than khóc mếu ly tán, vợ tiễn chồng, con tiễn cha.Tiếng khóc sinh ly dưới cờ vàng mà thảm hơn cả những tiếng tử biệt…”, ăn uống ở Tân Thế giới thì :” cá khô mủn ra như mạt cưa, một quả trứng luộc cho cả chục người ăn (sic) thịt trâu đánh đàn và rau muống thắt lưng được (hi hi)…”, khi bà con trở về quê hương đã vào ”cái thế kỷ lớn lên của chủ nghĩa cộng sản, cái thế kỷ của Liên xô đưa người hoà bình lên tinh cầu vũ trụ” và bởi thế bà con cực kỳ xúc động :” Thật là sống lại. Lúc đi cũng chả nghĩ được ai là tốt ai là xấu. Nay về , thấy mọi người đều thân hơn cả ruột thịt. Giờ được về thấy nước như non tiên…”. Và rồi nhà văn Nguyễn Tuân “tưởng tượng “ : “Tôi không theo đoàn đại biểu kiều bào lên Hà Nội gặp bác Hồ nhưng tôi không khỏi hình dung, tưởng tượng nhiều tới buổi gặp gỡ này. Chủ tịch nước chúng ta 70 tuổi thọ. Cụ già phu mộ Tân thế giới 80 tuổi chẵn. Cụ Hồ thì chủ động xuất dương mà bôn ba khắp châu này biển nọ mưu hạnh phúc cho tất thảy những người đau khổ thế gian, trong ấy có người đau khổ đi phu Tân Thế giới…”
Khi viết những dòng hào sảng, đầy cảm hứng này, không hiểu bác  Nguyễn có biết số phận những Việt kiều Tân đảo này rồi đây sẽ mất hút  trong những vùng kinh tế mới trên núi rừng Tây Bắc xa xôi ? Trí tuệ sắc sảo như nhà văn Nguyễn Tuân ắt phải  biết nhưng viết thế thì vẫn cứ … phải viết. Chứ còn biết làm sao ?
                                                     
                                                                          
“Văn học nghệ thuật là vũ khí của Đảng, mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá…văn học phải phục vụ chính trị…”
Ta có thể thông cảm hoàn cảnh khắc nghiệt của các nhà văn Việt Nam khi phải đội trên đầu “cái vòng kim cô” đó  mà bất kỳ ai cũng có thể đọc “niệm chú” cho kẻ đang đội nó phải thân tàn ma dại. Vậy nhưng khác với Tôn Ngộ Không bị buộc phải đội, trong cái chợ văn chương xã hội chủ nghĩa, ai muốn vào thì vào, ai muốn ra cũng chẳng cấm, bất kỳ nhà văn nào muốn từ chối danh hiệu “ người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ” đều có thể xếp bút nghiên theo việc cày bừa, nhà văn có thể tháo cái “vòng kim cô” trả lại Đảng kiểu như nhà thơ Hữu Loan từ bỏ Hội Nhà văn về làm ruộng, Đảng còn mừng nữa là khác. Với Nguyễn Tuân thì khác, ông “ngông” ở đâu không biết chứ trên “mặt trận văn hoá văn nghệ” ông “phục vụ chính trị” vào loại xông xáo nhất, hăng hái nhất trong các nhà văn “tiền chiến”.
Thử coi Nguyễn Tuân tả Lê Duẩn giảng bài :
“ Hình ảnh “ thày học “ ( Lê Duẩn) hửng dưới rặng hoa mơ hoa  bưởi  trắng, nở bên những mái gồi, trên những con đường thấp thoáng quần áo xanh lam dặm. Càng ngày càng hiểu thêm ra thấy rõ chủ nghĩa Mác là mùa Xuân của loài người. Càng thấy mình trẻ lại trong sự giáo dục ân cần của Đảng..”.
Thật khó ngờ rằng mãi đến những năm thập kỷ 60, ông nhà văn   Nguyễn  Tuân vẫn tràn đầy cảm xúc “mùa xuân của chủ nghĩa cộng sản”  trong khi trước đó rất lâu , André Gide đã viết “ Retour de l’URSS”, Koetsler đã viết “ Le zero et l’infini” , nhà văn Nga Bulgakov đã viết “Trái tim chó”, Pasternack đã có “ Bác sĩ Dzivago”,  nhà báo Proust đã lật tẩy :” chủ nghĩa cộng sản là sự đánh đồng cái cao thượng và cái ti tiện” , “Câu lạc bộ Petophi” ở Hunggary đã sôi nổi đòi thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa đó. Không lẽ trí óc lỗi lạc của ông nhà văn không mảy may tiếp nhận những tia hồi quang của những người tiên phong cùng thời đó ?
Rồi cũng năm đó, ông tả hai cái xác chết của Lê Nin và Staline :
“ Tôi cảm thấy như những cặp lồng mày, lông mi sắp sửa chớp chớp và tất cả ở đây sắp được nghe thêm một lời nói rất mới rất nhẹ. Một vừng sáng hồng toả lên từ hai khuôn mặt trong lặng. Đấy là thần thái của những người sống, người còn sống. Đấy là thần thái của những vĩ nhân thế giới đã thức chọn một đời và trong lúc nhân loại ngày nay đã đi mạnh được trên cái đà của chủ nghĩa cộng sản thì Người đã yên tâm chợp mắt trong giây lát…Người nghỉ đây nhưng người đã hoá thân vào trong tâm não của cả nhân loại…Người đã thành tên tuổi của một kỷ nguyên mới, của một nền cảm xúc mới và một nếp lạc quan mới…”
Người ta có thể tin chắc nếu được dịch sang tiếng Nga cho nghe, hai đồng chí lãnh tụ tối cao đang nằm trong quan tài pha lê cũng phải nhổm dậy cười hô hố  :” Thằng nào hót hay thế?”. Khổ nỗi không hót “hay” như vậïy, lần sau “nó” cắt xuất không cho đi tham quan các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa nữa thì…nguy. Bởi vậy ở một chỗ khác, NT lại “bốc phét” : “ Tuyết sẽ trùm lên hết Cung điện Mùa Đông Pêtôgrat. Nhưng lửa nghị lực và sức làm việc nóng sôi của Lênin ở lều đây sẽ làm tan khối băng tuyết…”. Í trời ơi, lửa của lãnh tụ nóng như vầy không khéo đốt cháy cả nhân dân Nga. Thế rồi được uống rượu Vodka nhắm với trứng cá hồi, ông nhà văn lại ba hoa về tượng Staline :” Người nhìn ra xa , nhìn chủ nghĩa cộng sản đang hình thành giữa trời nước Liên xô bát ngát. Sta-lin to cao bình tĩnh như một ngọn đèn bể. Gió bể Cát-piên cuốn bụi dưới chân Người . Người  đuổi theo những ý nghĩ lớn. Sta-lin không nói . Sta-lin lặng im như một pho tượng sống…Vây quanh lấy Sta-lin , cuộc sống tưng bừng xây dựng của Stalingrát và của cả Liên bang xô viết đang nói to lên những điều Sta-lin lặng nghĩ trên ngã ba sông…”. Tượng đá mà còn biết nghĩ, và những ý nghĩ đó còn được cả bàn dân thiên hạ nói to lên, thì quả thực “nghề này phải lấy ông này tiên sư”.
Nguyễn Tuân là tấm gương tiêu biểu cho phẩm chất “ Tuần chay nào cũng có nước mắt” của các nhà văn Việt Nam. Hồi đầu Cách mạng tháng Tám, ông đã có “Lột xác”, “ Ngày đầu tuổi tôi cách mệnh”,” Trên đường đến với Đảng”….Thật chẳng ai ngờ, mới ti toe làm cách mạng , Nguyễn Tuân đã mượn  lời “Thần cách mệnh” thở ra giọng sắt máu :” Ta là kết inh của Bạo Phá.Ta là cái chổi quét mạnh vào những thứ nhân nghĩa không khoa học.Ta khai chiến với hiện tại. Ta là Hồng Hài Nhi của cuộc đời  rơm cỏ bây giờ. Đối với cái khối của cải bất nghĩa, ta là cốt mìn, ta là bom nguyên tử. Ta đốt, ta quật ta phá, ta tạo ra tan rã, ta ngự trị lên cuộc đời mâu thuẫn . Ta là lịch sử. kẻ nào nghịch với ta, ta giết…” ( nhạc kịch “Cỏ Độc lập”). Ghê gớm chưa , rõ ra là giọng “trí, phú, địa , hào đào tận gốc trốc tận rễ” từ thời xô viết Nghệ Tĩnh đã nhiễm sâu vào máu chàng lãng tử họ Nguyễn. Rồi để ca ngợi Đảng trong kháng chiến chống Pháp ông có “ Đuốc dân công tiếp viện”, “ Thắng càn “, “Đường  vui” ,” Tình chiến dịch”,”Tuỳ bút kháng chiến”…Vào thời kỳ cải cách ruộng đất , bao nhiêu máu và nước mắt của hàng trăm ngàn người chết oan chẳng mảy may làm Nguyễn Tuân buông một tiếng thở dài, ông cứ ngó lơ cái bi kịch có tầm vóc dân tộc ấy để mà đấu hót ca ngợi công ơn Đảng và Chính phủ đã cho “người cày có ruộng” trong những “ Làng hoa”, “Tổ đổi công Chị Nhì ở Phú Yên”…, hoặc chửi rủa địa chủ phong kiến trong “Tây Bắc căm thù”,”Bóng nó còn đè lên xóm làng…”. Chỉ nội trong chuyến được Đảng cho đi tham quan Liên xô, Nguyễn Tuân đã “hót” lia lịa cả loạt bài :” Lăng và hồ Lênin”” Về Stalingrát” “ Thăm nhà máy cày”. Nhân “Liên xô kỷ niệm Cách mạng tháng Mười được chẵn năm mươi năm”, Nguyễn Tuân ao ức :” Tôi muốn tôi được hoá thân làm một ngòi pháo cây bông lửa màu soi mình suốt đêm thâu đo trên pha lê tuyết ngần của Mạc Tư Khoa tôi hằng quý mến, của Lêningrát tôi hằng nhớ thương…”. Ôi chao, tình thương mến thương quê hương cách mạng Tháng Mười của Nguyễn Tuân rào rạt đến như vậy thì còn có nhà văn nhà thơ thế giới nào hót hay hơn   được nữa ?  Chỉ tiếc chưa đầy hai chục năm sau, “kiểu đấu hót” này đã bị Ngài Putin vứt vào thùng rác của lịch sử. Được đi thăm Trung Quốc , Nguyễn Tuân ca ngay một tập “Bút ký Trung Hoa” trong đó có cả loạt bài, nào “Cung thiếu nhi”, nào “Ngày Quốc tế thiếu nhi tại Bắc Kinh””Xưởng máy dệt gai ở Cáp Nhĩ Tân”” Gang thép khu Đông Bắc và người công nhân Trung Hoa”” Xưởng máy mẫu cơ ở Thẩm Dương”” Làng ngoại thành Bắc Kinh” “ Sân khấu Trung Quốc”…ở đâu cũng thấy Nguyễn Tuân đề cao công ơn của Đảng cộng sản Trung Quốc mang tới cho nhân dân Tàu. Chẳng chịu kém thi sĩ  Chế Lan Viên trong hai câu thơ để đời :
“ Bác Mao nào ở nơi xa…
Bác Hồ ta đó cũng là bác Mao…”
Nguyễn Tuân cũng phóng bút :” Trong cuộc sống tưng bừng ngày nay của Trung Quốc có Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Hoa luôn đem vui tươi ấm no đến cho nhân dân , tôi cảm thấy cây liễu đã trổ hoa thật và bóng liễu ngày nay xanh rờn  bắt nắng hơn bao giờ hết…” . Ôi chao ôi, công ơn Mao Chủ tịch và Đảng  cộng sản Trung Quốc cao đẹp đến nỗi cây liễu cũng ra hoa thì thật là bốc phét đến … tàu cũng phải cười. “Nhà tiên tri giả” Nguyễn Tuân liệu có biết chỉ không đầy chục năm sau, Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Quốc đã dìm chết cả chục triệu người vô tội trong biển máu của “Cách mạng văn hoá” ?
Vậy nhưng bổng lộc Hội nhà văn Việt Nam đâu có nhiều cho Nguyễn Tuân “xê dịch” khắp thế giới dẫu đã tình nguyện làm con hoạ mi ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, Và dường như Đảng đã nhận ra chàng Nguyễn  “đấu hót” về tình quốc tế vô sản vĩ đại như thế đủ rồi nên “mời” chàng lên rừng để làm nhiệm vụ “tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc” và chẳng ai ngờ, dẫu phải rời đất thánh Hà Nội, chàng cũng đã hoàn thành công tác một cách xuất sắc….

                     
Đó là vào dịp đi thực tế sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Thực ra trong vụ này, Nguyễn Tuân cũng có “tham gia “ vài bài như “Quanh việc phê bình tờ báo Văn, Phê bình nhất định là khó, Tìm hiểu Sê-khốp, Cây HàNội v.v.” nhưng cũng chỉ ở mức độ “em xin thưa lại với Đảng” kiểu như “ tình trạng lệch lạc trên mặt sáng tác của báo Văn là do trình độ yếu” hoặc “ đến với nghệ phẩm , anh đến với nó mà anh tham lam quá đáng hoặc  hung hăng một cách không cần thiết thì nó biến mất” …thượng số chỉ thế , chứ chẳng phải đòi  tự do sáng tác, dân chủ xã hội gì ghê gớm như bà Thuỵ Khuê đã viết trong “Thi pháp Nguyễn Tuân” : “Thời kỳ Nhân văn giai phẩm, Nguyễn Tuân trở lại với tính nghệ sĩ cứng đầu, viết những bài tiểu luận khá ngang tàng, phê bình chế độ và một số lãnh đạo văn nghệ “.Ôi chao là ngộ nhận, bởi lẽ ngay sau khi được đồng chí Như  Phong ( GĐ NXB Văn Học) uốn nắn trên báo Nhân Dân, đầu chẳng cứng mà khí phách cũng chẳng ngang tàng (từ sau cách mạng chưa bao giờ chàng có được cả hai phẩm chất này để mà “trở lại”), Nguyễn Tuân sám hối ngay một bài “ Nguyễn Tuân tự phê bình” in trên Văn Nghệ, tự nhận “hồi Nhân văn Giai Phẩm tôi đã có sai lầm hữu khuynh…”,”trong lòng mình thẩm lậu một con đê chưa hàn khẩu” (riêng câu này, bà Thuỵ Khuê có thể dùng để minh chứng thêm cho cái bà gọi là “thi pháp Nguyễn  Tuân”, nhưng “thi pháp” nào cũng còn  có ý nghĩa gì khi nó gói ghém một điều giả dối ?), thành khẩn không thua gì trong “Lột xác”, báo cáo thu hoạch sau đợt học tập chính trị hồi còn ở Việt Bắc. Tuy nhiên lần này có khác, lần này kiểm điểm xong, Đảng mời Nguyễn Tuân “đi thực tế mãi trên Điện Biên” và lại còn dặn dò :” Các đồng chí mắc sai lầm lần này phải cố gắng đi thực tế…”. Những tưởng cái “ngang tàng, cứng đầu” trong con người Nguyễn Tuân vùng dậy mà quăng đi cái mũ cối bị chụp lên đầu, hoặc chí ít cũng có một lần thở dài trong trang viết của mình, nào ai có ngờ , những bài viết của Nguyễn Tuân trong đợt đi thực tế này lập tức được các nhà văn hoá của Đảng vỗ tay reo mừng . Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ sốt sắng :” Chưa bao giờ câu văn Nguyễn Tuân có được cái âm điệu hùng tráng vui tin và lạc quan đến thế. Đáng quý ở đây là sự hoà hợp với cuộc sống mới xung quanh , ý thức  đóng góp phần mình vào cái công trường không lồ của chủ nghĩa xã hội”. Nhà nghiên cứu Trương Chính khẳng định :” Chính trong chế độ mới, ông đã tìm ra con người chân thực của ông”. Nhà văn Nguyên Ngọc cũng tâng bốc :” …tôi muốn chào mừng ở anh Nguyễn Tuân một cách đứng mới, một vị trí mới, không những chỉ là một vị trí mới của anh trong tác phẩm mà trước hết là một vị trí mới của anh trong cuộc sống mới. Anh đã nói rất nhiều , rất say sưa về những con người mới mà lòng hy sinh cao cả của họ đã hiến dâng hết cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội..”
Tập “Tuỳ bút Sông Đà”của Nguyễn Tuân  viết sau đợt đi Tây Bắc đã được dán rất nhiều tem đỏ kiểu như thế. Bởi lẽ , vượt cả yêu cầu của đồng chí Tố Hữu, ông đã coi những người bị đầy đi làm kinh tế mới, những công nhân đập  đá vá đường trên những vùng rừng núi xa xôi, heo hút là “những thỏi vàng của một khối vàng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đem đầu tư vào Tây Bắc”. Niềm tin yêu Đảng lúc này chẳng biết thực hay vờ làm Nguyễn Tuân cất lên những dòng viết đầy hào sảng :” tâm hồn tôi đã in sâu và vang động tất cả cái ý thức xã hội chủ nghĩa của người đi mở đường miền Tây”,”Tiếng máy nổ của kế hoạch kinh tế sẽ trùm lên tiếng cối nước. Ba năm chưa được thì lại năm năm và cuối cừng là rừng ở đây sẽ quấn quanh lấy người , lấy hơi người , mười đầu ngón tay con người sẽ giao hoà với cuống hoa đầu quả, hoa không còn là hoa ngàn vô định, cỏ cũng không còn là cỏ dại dặm dài . Hoa chẩu , hoa các cây công nghiệp, cây ép dầu , cây bóng mát, cây ăn quả sẽ đua tươi với mọi thứ hoa hương và hoa sắc. Hẳn vì đã thấy trước cái triển vọng thơm ngọt tươi thắm ấy của lũ chúng ta ngày nay trên con đường lớn này, mà trên đồi ngục Sơn La, từ những ngày hoa cỏ bị dập vùi, các đồng chí tiên liệt Đảng ta đã tượng trưng giồng lên mấy gốc đào…”
Ôi chao ôi là chàng Nguyễn, lên cơn “thi pháp Nguyễn Tuân” mà vẫn không quên cả cây đào của đồng chí Tô Hiệu, tiền bối cộng sản, trồng ở nhà ngục Sơn  La ngày trước. Chỉ tiếc không đầy 20 năm sau  giá như ông  lại ngược sông Đà chuyến nữa để thấy các đồng chí cán bộ Đảng tại nơi ông đã đi qua cùng với đám lâm tặc phá rừng như thế nào – hơn 10 triệu ha rừng nguyên sinh, rừng gỗ quý, rừng phòng hộ đã bị chặt nát để biến thành những “phủ” lộng lẫy, những tiện nghi sa hoa, những xe hơi đắt tiền .
Ngày nay đọc lại những “ Sông Đà”,” Tờ hoa”, “Tình rừng “ của Nguyễn Tuân, người ta chỉ còn thấy đôi chút giá trị ở những tư liệu dư địa chí mà ông đã thừa nhận “ Tôi đọc ở Thư viện khoa học một bộ bảy quyển dày và to “La mission Pavie của một học giả thựuc dân Pháp viết rất kỹ về Lai Châu.Những kiến thức ấy cho tôi những trang viết sinh động trong tập Sông Đà…”, còn phần lớn là những trang tán nhăng tán cuội về những “con người giả” như anh bộ đội Điện Biên trở về quê “vận động cả gia đình lên Tây Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy núi rừng miền Tây làm quê hương thứ hai…” hoặc như anh cán bộ Phương, người kinh lên vùng cao công tác, được Nguyễn Tuân ca ngợi :” Cán bộ Đảng ta, nhất là ở Tây bắc, nhất là  đối với một số đồng chí gây cơ sở ở vùng địch hậu cũ, cán bộ Đảng nó cứ như là một con dao pha ấy. Vứt đâu cũng được, cái gì rồi cũng làm. Loay hoay ngày đầu , nhưng có ý thức trách nhiệm, rồi cũng tìm ra, vừa làm vừa học…”. Giá như Nguyễn Tuân thành thực với chính ông, chắc chắn ông sẽ thấy “ cán bộ Đảng ta” không phải là như vậy.
Tuy nhiên, dẫu đã hót hay thế mà Nguyễn Tuân vẫn bị “bắt bẻ” trong “Tờ hoa”, “ Tình rừng” vì dám lên án kẻ đốt rừng. Ô hay, bác Hồ đã dậy :” Dẫu có phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn để thống nhất đất nước thì vẫn cứ phải đốt ” rồi kia mà. Bởi thế nhà thơ Xuân Sách mới làm thơ chân dung Nguyễn Tuân :
“ Vang bóng một thời đâu dễ quên,
Sông Đà cũng  muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu Tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền”
Sau hai “tai nạn nghề nghiệp” này , Nguyễn Tuân thôi không chơi “cảnh”, chơi “rừng” nữa, ông dứt khoát trở thành một chiến sĩ dùng ngòi bút làm vũ khí xông xáo trên mặt trận “chống Mỹ cứu nước “ : “ Cho giặc Mỹ ăn một cái Tết ta””Hà Nội ta diệt B52””Hà Nội giải tù Mỹ đi qua phố Hà Nội”… chửi Mỹ như một bà nhà quê mất gà. Nào là “những tên phát xít Hoa kỳ hợm hĩnh về súng đạn và du côn du kề lộng hiểm” nào là :” từ lòng đường xông lên mùi của Thần Chết, một cái thứ khắm thối Hoa Kỳ mà không thứ nước huê đế quốc nào tẩy tan được…” nào là “Thằng Tổng thống kẻ cướp Mỹ ấy càng leo thang xâm lược càng nện dùi mạnh vào cái mặt trống hoà bình…””Nước Hoa Kỳ đã đi một lèo từ man rợ thẳng tới đoạ lạc mà không có thông qua giai đoạn văn minh, văn hiến nào…”. Cứ như thế “ cơn bão ngôn từ” của Nguyễn Tuân lên tới đỉnh điểm ở bài ký nổi tiếng “ Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”. Trong bài này ngoài giọng chửi Mỹ xoe xoé, Nguyễn Tuân còn phủ lên cái chết tang thương của bao  người Hà Nội một thứ “lạc quan cách mạng” phi nhân :” Chợ Ngọc Hà không phải là vỡ chợ mà là xác thù đã vỡ tan trên buổi chợ chiều”. Ô hay , bom rơi xuống chợ, người chết, nhà cháy, toàn là dân ta cả, có “xác thù ” nào đâu mà nhà văn khéo tưởng tượng. Rồi thì “ cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô- doà sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay súng…”, hi hi, chắc cô này không chồng, không con, không nhà, không cửa nên bom ném vào xóm là cầm ngay lấy…cây súng. Rồi thì “ Tôi đi giữa Hà Nội hôm nay đã chói thắm Huân chương Độc Lập hạng Nhất. Hà Nội phấn khởi  đón mừng Huân Chương thi đua lập thành tích mới…Hoa sấu vẫn nở vãi vương khắp thủ đô tưng bừng chiến thắng…”. Lậy đức Chuá nhân từ, máu đổ, người chết, nhà sập…bao nhiêu bi thương đó ông không thấy , chỉ thấy có “thành tích với huân chương” ? Phải chăng tâm hồn nghệ sĩ của “ thiên tài Nguyễn Tuân” ( nói theo bà Thuỵ Khuê)  đã trơ như đá , rắn như sắt, cứng như thép mất rồi.
Người ta có thể tôn vinh Nguyễn Tuân như một “phù thuỷ ngôn từ”, một “Thần bút và một thi pháp đặc biệt “ ( bà Thuỵ Khuê), người ta có thể ví ông như “một nhà làm xiếc chữ ở trên dây”, tiếc thay, từ sau năm 1945, cái dây đó đã đặt xuống đất rồi mà ông cứ vờ như nó vẫn dăng cao để ông cứ còn uốn éo mãi trên cả ngàn trang chữ. Phải chăng đó là “thi pháp Nguyễn Tuân” ?


            

 “ cưỡi con dế mèn bay đi khắp thế gian…”
                                                                       


            Sinh thời, ông trùm văn hoá mác xít  Việt Nam, nhà phê bình văn học Như Phong “khái quát “ về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn trong có mỗi một câu :“thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.Văn chương thì khoan nói tới, nhưng về cái sự khôn lỏi,   láu cá đầy phong cách tỉnh lẻ chỉ Hội nhà văn phải lấy “ông này tiên sư”.
Thời bao cấp, được đi nước ngoài “tham quan, hội thảo, gặp gỡ” ( hồi đó chưa có từ “giao lưu”) là một mơ ước xa vời vợi đối với các bác có chân trong Hội nhà văn Việt Nam. Bởi lẽ từ khâu đầu tiên được Ban đối ngoại Hội dự kiến, Ban thường vụ Hội duyệt rồi qua Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Bộ Ngoại giao rồi tới Vụ Văn Nghệ,  Ban tuyên giáo trung ương , Ban bí thư…là cả một “con đườùng sấm sét” với muôn vàn trắc trở.  Cử ai đi chứ cái thằng cha X. này phải coi lại nhé. Nghe nói tư tưởng “có vấn đề ”. Nghe nói phát ngôn lung tung. Nghe nói viết lách không rõ ràng…Bằng ngần ấy ông “gác cửa”, chỉ cần một ông “ phán cho một câu” là rớt đài…đợi chuyến sau. Âùy vậy mà lọt qua được bằng ấy cửa tử rồi, vẫn cứ phải chờ “anh Lành “ ( tức đồng chí Tố Hữu ) gật cho một phát mới gọi là tạm yên tâm và bắt đầu hồi hộp chờ nhận comlê, cavát cùng là hộ chiếu, vé máy bay đợi ngày xuất ngoại.
Hội nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 Hội viên mà hàng năm chỉ có dăm bảy suất đi nước ngoài, bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh tử, giành giật âm thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh. Nhà văn nổi tiếng và có nhiều tác phẩm giá trị như Nguyễn Thế Phương, tác giả tiểu thuyết “Đi bước nữa”, “Đào chèo”…mà đến tận cuối đời mới được một xuất đi Trung Quốc ngắn ngày, còn nhà thơ Quang Dũng, từ “ Đôi mắt người Sơn Tây” tới “Nhà Đồi” , viết lách cũng tới cả ngàn trang văn học cách mạng mà …chưa ra khỏi biên giới lần nào. Ấy thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại tới … 105 lượt( một trăm lẻ năm ), đủ  các nước Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi…, mà sự nghiệp của bác xem ra đỉnh cao nhất cũng chỉ là truyện vừa “Dế mèn phiêu lưu ký”. Bởi thế dân gian mới có câu :
“Đảng đoàn là Đảng đoàn Thông,
Ở đâu có rượu là ông tới liền
Đảng đoàn làø Đảng đoàn Hoài,
Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”
Hồi đó ông nhà thơ Hoàng Trung Thông và ông nhà văn Tô Hoài đều có chân trong Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam . Các bác Hội viên “ cả đời chưa một lần đặt đít lên ghế  tàu bay” phải ca cẩm :” cái thằng ranh ma thế , có mỗi con dế mèn mà bay khắp thế gian” . Xem vậy đủ hiểu bác Tô Hoài luồn lách, chen lấn , đội đạp phải cỡ cao thủ võ lâm mới lập kỳ tích số lần đi nước ngoài đáng đưa vào Ghi-Nét Hội nhà văn Việt Nam như thế.
Vậy nhưng cái tính “ngoại ô láu cá” ấy của bác Tô Hoài chẳng phải do cách mạng hun đúc nên mà ngay từ hồi còn phong kiến đế quốc bác đã mang nó  rồi. Ngày nay đọc lại “Dế mèn phiêu lưu ký” mới thấy “anh Sen làng Nghĩa Đô” ( tên thật của tô Hoài) đã ranh ma từ độ ấy, mới giật mình, sao chú dế oắt “ngoại thành” này “khôn lỏi” thế ? Lo toan cho cái thân mình thế ? Mới nứt mắt chú đã : “Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giường  ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được…Bởi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm…” Quân tử “phòng thân” từ thủa ấu thơ kỹ lưỡng vậy trách gì khi trưởng thành chẳng rút ngay bài học “chui tọt ngay” vào hang sau khi lớn giọng trêu chị Cốc “ vặt lông cái Cốc cho tao, tao nấu tao nướng, tao xào tao ăn” để mặc thằng Dế Choắt bị chị Cốc “giận cá chém thớt” mổ cho đến chết, trong lúc đó Dế Mèn ta “ lên giường nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ”, thây kệ thằng Dế Choắt ăn đòn thay mình.
Sau này, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho dù chàng Dế Mèn chẳng dám chọc tức Đảng câu nào, nhưng cũng “tự đấm ngực nhận lỗi” trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng 3 năm 1958 :
.      “Tư tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuynh hướng tư tưởng nhóm ấy lợi dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước tình hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta. Trong văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tưởng đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch. “
Rồi thì thây kệ “chị Cốc” cứ “mổ” la liệt các “ chàng Dế Choắt” : Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… đuổi đi đào đất, vác than. Chàng Dến Mèn chui tọt ngay vào cái hang “ đề tài miền núi” viết toàn chuyện “quan thống lý Pá Tra” đàn áp , bóc lột “vợ chồng A Phủ”  tức “người Mèo ta khi chưa có Đảng”, tránh xa mọi chuyện hiểm nguy nới phố thị, tha hồ cho “chị Cốc” hoành hành, chàng cứ ung dung “toạ hưởng kỳ thành”, vắt chân chữ ngũ lâu lâu lại “cưỡi con dế mền ” bay đi tham quan nước bạn. Thành công đó là nhờ Tô Hoài đã rút “kinh nghiệm” của chú Dế Mèn ngày xưa : “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn gì cũng mang vạ vào thân”. Cái đám Nhân văn Giai Phẩm kia đúng là “hung hăng bậy bạ”, “có óc mà không biết nghĩ” , “ Ôi thôi, chú mày ơi. Chú mày có lớn mà chẳng có không” (lời Dế Mèn dậy Dế Choắt) thì bị Đảng cho ăn đòn còn oan nỗi gì ? Phải khôn ranh, láu cá thì mới giữ được thân, hưởng lộc dài dài, chẳng thế mà hiền lành như nhà văn Bùi Hiển cũng phải than :” Tôi lại có cảm giác là anh ( Tồ Hoài) có khuynh hướng hơi e ngại, hơi dè chừng…”. Giống như  chú Dế Mèn trong suốt cuộc phiêu lưu , chẳng thấy “hành hiệp giang hồ”, đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu đuối, toàn đi “chọi “ với Cào Cào , Châu Chấu …mà cứ hễ thua là bỏ chạy, Tô Hoài cũng vậy, suốt cả mấy thập kỷ ngồi ghế “lãnh đạo văn nghệ” (hết Hội nhà văn Trung ương lại tới Hội nhà văn Hà Nội), bao nhiêu nhà văn Hà Nội bị “Cốc mổ” như  Xuân Khánh, Châu Diên, Vũ Bão, Lê Bầu…mà chưa lần nào thấy ông Dế Mèn lên tiếng bênh vực đàn em, chưa kể có khi còn xúi “chị Cốc” mổ thêm cho chết. Hoá ra “ triết lý con lươn” của Nguyễn Khải – cứ gặp rắc rối là tiết chất nhờn lủi mất, còn thua xa bí kíp “chui tọt xuống hang” của bác Dế Mèn. Cứ chữ “thọ” đeo sau lưng, Nhân văn –Giai Phẩm lủi lên Tây Bắc, Mỹ đánh miền Hà Nội , chuồn lên rừng…  cứ thế làm gì bác chẳng lập kỷ lục  Ghi Nết “hễ đi nước ngoài là có ông ngay”.
Vậy nhưng “cứ tọt xuống hang” vậy rồi sự nghiệp văn chương chữ nghĩa của bác rồi sẽ đi về đâu ?


                                                                                   
Nhìn vào bản liệt kê các tác phẩm đã xuất bản của Tô Hoài, ta phải ngả mũ bái phục về khối lượng đồ sộ của “lão nhà văn” tuổi ngoài tám mươi vẫn viết không ngưng, không nghỉ :
“Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Ngược sông Thai, Đại đội Thăng Bình, Xuống làng, Truyện Tây Bắc , Khác trước, Võ tỉnh, Người ven thành, Mười năm, Miền Tây,Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ, Những ngõ phố, Người đường phố, Thành phố Lêningrat, Trái đất tên người, Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con mèo lười, Trâu húc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Nhả chữ  vân vân…”  và gần đây nhất là hồi ký “ Cát bụi chân ai”.
  Tuy nhiên, trong tập thơ  “ Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân Sách  khái quát sự nghiệp văn chương của Tô Hoài, còn lại với thời gian chỉ dăm ba cuốn :
                            “ Dếâ mèn  lưu  lạc mười năm
                            Để cho “O chuột” ôm cầm thuyền ai ?
                            Miền tây trăng đã tàn phai
                            Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang”
Những “Dế mèn phiêu lưu ký”, “O chuột” ,“Giăng thề”  được viết từ trước cách mạng 1945 khỏi nói tới, sau đó dù có viết tới vài ngàn trang, theo cách nhìn nhận của nhà văn Xuân Sách, Tô Hoài còn lại có “Mười năm”, “Miền tây” và “Đảo hoang”.
“ Mười năm” là cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang viết về làng Hạ gần Hà Nội vào thời kỳ (1936-1945), tức là thời kỳ Mặt trận Bình Dân tới Cách mạng tháng Tám. Cái làng nghề dệt lụa này đang vào thời kỳ suy sụp, khung cửi xếp xó, xóm làng xác xơ  gây nên thảm trạng “con đánh bố”, “trai gái sắp chết đói vẫn đòi ngủ với nhau”… ” Có áp bức là có đấu tranh”, thế là đám thanh niên trong làng như  Lê, Lạp, Trung quên cả đói “chơi trò” trốn thuế, diễn kịch, lập hội Ái hữu, rải truyền đơn…và sau “Mười năm” trui rèn trong lửa cách mạng, Lạp và Trung đã trở thành  “đảng viên cộng sản lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền ở xã và phủ”, còn chị Hai Tâm, goá chồng, dâm đãng, bị một thằng đểu nó lừa…sau này cũng trở thành đảng viên cộng sản, có chân trong Đội Danh dự làm “công tác đặc biệt”. Vậy là mọi ngả đường  của phần lớn các nhân vật đều đi tới …vào Đảng cộng sản cả. Ca ngợi đến mức đó mà “Mười  năm” vừa mới ra lò đã bị  Như Phong, nhà phê bình mác xít “choang cho một búa “ :” Phong trào cách mạng của ta trong thời kỳ ấy, nếu ai muốn tìm hiểu nó trong cuốn “Mười năm” thì sẽ luôn luôn gặp những hình ảnh rất lạ lùng, lờ mờ, nguệch ngoạc và có khi méo mó đến làm ta sửng sốt được…”. Nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ thì răn đe :” Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết hồn nhiên, tự phát, kinh nghiệm…mà đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc về những quy luật xã hội, một trình độ tổng hợp và khái quát ngày càng cao…”. Ôi thôi, thế mới biết đi theo đường lối văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Đảng đâu có dễ. Nào nhận thức quy luật, nào tổng hợp, nào khái quát, các nhà văn đi theo cách mạng đừng có tưởng bở dễ ăn theo được Gorki, Sôlôkhốp, Fađêép …những nhà văn cộng sản lẫy lừng thời đó. Vậy    “Mười năm” đã bị “khai đao” ngay từ lúc mới sinh và cho tới bây giờ đọc lại thấy vẫn “đầu Ngô mình Sở”, may ra còn được vài trang tả cảnh “ những phiên chợ lụa, những chái nhà sâu dặt dìu tiếng khung cửi, những mảnh sân vào những đêm trăng cuối thu thoang thoảng mùi hoa thiên lý , hoa cau, hoa ngọc lan, hoa móng rồng”.
Viết chuyện “ngoại ô” xem ra khó xơi, Tô Hoài “láu cá” (chữ của Như Phong) phóng tuốt lên rừng viết truyện “ Miền Tây” giàu chất phóng sự, báo chí hơn là tiểu thuyết. Nếu như trước cách mạng, Tô Hoài thường đi sâu miêu tả cá nhân trong thân phận  mỗi người, sang “thời đại mới”, ông sốt sắng đi theo con đường hiện thực XHCN theo cách hiểu của ông, chuyển hướng sang “phản ánh” cả một phong trào, một thời kỳ cách mạng. Bởi thế cái đích ngắm của ông trong “Miền Tây” là “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp ở các vùng cao những năm 1954-1957 giữa một bên là “bọn phản động” Đèo văn Long, Mùa Sống Cổ…”xưng vua”  và một bên là nhân dân và chính quyền cách mạng. Tiếc thay, “phe phản động” chẳng thấy đâu, hoặc chỉ là những bóng ma lẩn khuất trong rừng đâu có dễ dàng lộ diện cho nhà  tiếp xúc để mà “ nhận thức quy luật”, “khái quát” để mà “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go”, bởi thế Tô Hoài phải dùng lại cái “chiêu” cũ : mô tả cái đói cái cơ cực trước cách mạng và cái “đổi dời” khi cách mạng về của đồng bào miền núi. Tuy nhiên, gọi là “bám rễ” ở vùng cao, Tô Hoài cũng chỉ quẩn quanh ở các trụ sở Uỷ Ban, Đảng uỷ…gặp gỡ các “nòng cốt” của Đảng chứ đâu có “ba cùng” được với bà con trong bản. Bởi thế nhân vật trong “Miền Tây”, dù cho có là nhân dân lao động đi chăng nữa cũng được sản xuất theo một công thức : cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về như là “ Vừ Soá Toả, suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày cho thống lý, bây giờ trở thành Chủ tịch xã…” “ Thào Khay , con bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ của Đảng, có chân trong châu uỷ Châu Mộc…”  vân vân và vân vân. “ Nhân vật” trong tiểu thuyết Miền Tây đã hiếm hoi nhưng lại được đúc ra từ một khuôn kiểu vậy, bù lại, lấp cho đầy những trang giấy, Tô Hoài đi sâu vào “tả cảnh”. “ Những đêm đầu mùa hè mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp chân mây , những thung lũng làng mạc xa lạ…”,”Bóng tối trĩu nặng từng quãng nhanh và dữ dội , gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền núi , những dòng suối chảy ra lưng trời, chảy ngang người ngang ngựa…”. Tuy nhiên, những đoạn văn có mùi Nguyễn Tuân như thế rất hiếm hoi, còn thường là Tô Hoài dùng “thủ pháp đen trắng”, so sánh “ngày ấy, bây giờ” :” Trước kia mỗi phiên chợ Phiềng Sa, người đói muối đông nghìn nghịt chen chúc nhau, chồng đống lên nhau như đá đè, tiếng chửi rủa kêu khóc vang cả một góc núi. Bây giờ những ngày phiên chợ giáp Tết là những ngày hội tưng bừng của các dân tộc vùng  cao. Sự thật kỳ diệu nhất sau ngày giải phóng là sự thay đổi vận mệnh của những con người, những người nô lệ bây giờ đứng lên làm chủ đất nước…”. Chẳng hiểu có cái gì làm ông nhà văn bốc đồng đến thế, quên ngay mình đang viết tiểu thuyết mà nhảy phắt sang viết…xã luận đăng báo Nhân Dân.
Khởi nghiệp bằng truyện con nít, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã đưa mình đi khắp thế gian, Tô Hoài không quên xuất xứ, nên trong sự nghiệp văn chương của ông có tới trên 40 dầu sách viết cho thiếu nhi. Thế nhưng chất nhân văn của chú Dế mèn và cô Chuột ( O chuột) dường như ngày càng lấn át bởi chất “chính trị “như trong “Vừ A Dính”, “ Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ”, “ Kim Đồng” nên những truyện  kể con vật như “Chú mèo lười”, “Trâu húc”,” Người đi săn và con nai”, “ Voi biết bay”, “Hổ và Gấu đi cấy”…còn lâu mới tới chú  Dế mèn và cô Chuột. Đó là chưa kể trẻ con ngày nay đổ xô tìm đọc những Đôrêmôn, Harry Potter…cùng lắm là Nguyễn Nhật Ánh dẫn tới nguy cơ “mặt hàng giành cho thiếu nhi” của nhà văn Tô Hoài không khéo bị lưu kho. “Đảo hoang” là “tiểu thuyết thiếu nhi” được nhà thơ Xuân Sách nhắc tới trong thơ “ Chân dung nhà văn” cũng được viết theo truyền thuyết An Tiêm nhưng còn thua xa “Quả dưa đỏ” của Phạm Trọng Luật ngày xưa. Trong “Đảo hoang”, Tô Hoài đã tuỳ tiện “sáng tác “ thêm hai nhân vật là Mơn và và Gái – con trai, con gái của An Tiêm. Rồi trên hoang đảo lại có thêm một chàng trai tên Mali từ đâu  dạt tới để sau này cùng với cô Gái sánh duyên đi xây dựng…miền đất mới. Cái “cảm hứng” xây dựng miền đất mới , cuộc sống mới, con người mới, xã hội mới này làm cho những “tiểu thuyết thiếu nhi” của Tô Hoài nặng về giáo dục làm mệt đầu con nít vốn đã bị nhà trường nhồi nhét đủ thứ “mới” ở trên đời. Bởi thế  chúng nó bỏ anh  Dế Mèn chạy về với những Đôrêmôn, Harry Potter, Tom & Jerry…thì cũng là…quy luật tất yếu của cuộc sống…

Mới đây, nhân dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên, Báo Văn Nghệ Trẻ số ra ngày 23-4-04 có đăng bài phỏng vấn Giáo sư Phong Lê về “ Văn học những năm kháng chống thực dân Pháp – BÂY GIỜ NHÌN LẠI” . Nhà nghiên cứu văn học này phát biểu :” Đến Giải thưởng 1954-1955 với “ Việt bắc” của Tố Hữu, “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc, “Truyện Tây bắc” ( giải nhất) của Tô Hoài thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.
   Vậy là trong “thơ chân dung” nhà văn Tô hoài  , nhà thơ Xuân Sách đã quên một tác phẩm mang tầm vóc dấu mốc của văn học chống Pháp – “ Truyện Tây Bắc”. Vậy nhưng tác phẩm này có tương xứng với những lời tâng bốc của ông Giáo sư  ?  Đó là một tập truyện ngắn Tô Hoài viết vào những năm 1953-1955 tiếp tục đề tài miền núi trong những tập “ Núi cứu quốc” (1948), Xuống làng (1949) rước đó. Tuy nhiên, như Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:” Đến “Truyện Tây Bắc” mới là tác phẩm cắm mốc , khẳng định vị trí của Tô Hoài trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tại sao một tập truyện ngắn đường rừng rất xa trung tâm của cuộc kháng chiến - những vùng chiến sự ác liệt nơi đồng bằng, trung du…lại được tôn vinh “cắm mốc” ?  Đó là do “…thông qua hành động thực tiễn, đường lối giai cấp và đường lối dân tộc của Đảng , tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là bọn quan bang, quan châu, phìa tạo, thống lý …”  như GS Phan Cự Đệ nhận xét. Vậy là khác với những truyện đường rừng ngày xưa của Lan Khai, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài có”giá trị cao” là vì “thấm nhuần  đường lối của Đảng”. Thảo nào trong hai truyện được coi là xuất sắc nhất trong cả tập là “Cứu đất cứu mường” và “Vợ chồng A Phủ”  hễ cứ là “phong kiến” thì cực kỳ tàn bạo, gian manh, còn nhân dân lao động thì tốt thật tốt.
Trong “Cứu đất cứu Mường”, có“Cô Áng ngày xưa đã một thời đẹp nức tiếng đất Mường Cơi”, thế rồi bông hoa rừng ấy lọt vào tay quan tri châu Né “tối ngày ngồi một xó nha, rót nước, nướng thịt, bưng xôi, đun nước tắm …con mắt mờ mịt…”.  Cái ông quan tri châu này chẳng hiểu có thực ở trên đời không mà bao kẻ hầu người hạ đâu hết lại bắt “mỹ nhân” làm chuyện tay chân đó ? Cái ”tình huống ban đầu” đã nặng mùi giả dối, ấy thế rồi sau 10 năm đầy đoạ,“bông hoa rừng” được thả về làng mang theo hai con nhỏ ( con quan chẳng hiểu vì sao bị đuổi khỏi nhà ) vẫn còn…trẻ, đẹp để mỗi lần các quan đi săn ghé qua vẫn bị lôi đi hầu quan. Thế rồi nàng Ảng khổ quá phải cho đi một đứa con trai tên Nhấn , còn đứa con gái lại phải làm tôi tớ cho thằng con chồng là Cầm Vàng, sau này dẫn lính về cướp bản, nó chỉ mặt Ảng chửi :” Con gia Mường này rồ thật”  rồi vung roi lên đánh. Chẳng hiểu sao “quan bố“ “quan con” lại xấu đến thế ? Riêng thằng Nhấn- đứa con đã cho đi của nàng Ảng, lớn lên được anh cán bộ tên Sơn giác ngộ cách mạng trở thành du kích và bộ đội cụ Hồ. Thế còn cô em gái phải làm tôi mọi cho quan ? Không thấy tác giả nói tới và thằng anh ruột đi bộ đội cũng…quên cô luôn (có lẽ do cô đã thuộc thành phần…nhà quan).
Trong “Vợ chồng A Phủ” cũng có một nhân vật na ná như  nàng Ảng nhưng có phần may mắn hơn. Cô Mỵ cũng là một “bông hoa rừng”, cũng bị bắt về lấy con quan thống lý là A Sử. Lạ một điều là cưới  được “mỹ nhân” mà thằng chồng vẫn hành hạ, ngược đãi cô vợ trẻ đẹp coi cô như trâu như ngựa khiến cô hái nắm lá ngón dắt trong người, mấy lần tính ăn để tự tử  cho thoát kiếp tôi đòi. Thế rồi đến ngày Tết, A Sử đi chơi xa vài ngày, đã không cho vợ đi theo hắn còn trói nàng lại ở cột nhà ,” xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng, tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa…” . Trói vậy, không ăn không uống liền mấy ngày, chắc chắn khi A Sử đi chơi xa trở về, cô vợ xinh đẹp đã thành cái xác không hồn. Người ta chẳng hiểu vì sao chỉ cốt cô Mỵ không đi theo mà A Sử lại hành động như một kẻ giết vợ như thế ? Thôi đành chỉ tự hiểu đã là con quan thì thằng A Sử phải tàn ác, phải coi người như trâu chó, kể cả vợ mình. Vậy mới là “thấm nhuần quan điểm đấu tranh giai cấp”. May cho nàng Mỵ, thằng chồng chỉ đi một ngày một  đêm  đã trở về không phải vì lo nàng chết mà chính vì lúc chơi trong hội tết nó bị một thanh niên trong bản đánh vỡ  đầu. Mãi lúc đó, nàng  Mỵ mới được nhà quan phát hiện đang bị trói và được cởi để đi hái thuốc chữa trị cho chồng. Còn anh thanh niên kia, tên A Phủ, bị ông ”quan bố” Pá Tra trói gô “sọc ngang cái gậy, khiêng về ném giữa nhà “. Thế là từ đó, A Phủ phải ở lại nhà thống lý Pá Tra làm trâu làm ngựa đề đền tội đả thương con quan. Một năm kia, đàn ngựa A Sử được giao chăn dắt  bị hổ vồ mất một con. Thế là luôn trong mấy ngày, A Phủ bị trừng phạt trói đứng trong góc nhà nhịn ăn nhịn uống. Trong lúc đó, đêm đêm nàng Mỵ ngồi bên bếp lửa suy nghĩ :” Chúng nó thật độc ác . Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói , chết rét, phải chết…Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì mà phải chết thế …A Phủ…”. Thế rồi nàng Mỵ rút con dao cắt dây trói cho A Phủ trốn và bất ngờ cô chạy theo :” A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”. A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Họ trở thành vợ chồng ngay trên đường trốn chạy và một tháng sau họ đã thoát được sang vùng tự do. Truyện ngắn lẽ ra là kết thúc ở đây trang thứ 20 – nhưng không, Tô Hoài còn kéo dài thêm 20 trang nữa kể chuyện “vợ chồng A Phủ đổi đời trong cách mạng” vậy mới đúng phương pháp hiện thực  XHCH. Sau vài năm xây “tổ ấm”, vợ chồng A Phủ đã có mái nhà,có khung cửi, có lợn trong chuồng. Ấy thế rồi một hôm quan Tây dắt lính nguỵ tới cướp bản, dắt đi hai con lợn lại còn bắt A Phủ đi theo để khiêng lợn xuống đồn. Từ đó trong anh nung nấu lòng căm thù quân Pháp xâm lược, may thay một hôm có A Châu, cán bộ cách mạng tìm tới giác ngộ:” Bao giờ nhân dân ta lấy được độc lập thì vợ chồng A Phủ về quê tôi chơi. Bấy giờ tha hồ đi, đâu cũng được ở yên ,làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, đâu đâu cũng sung sướng như nhau…” . Và ta cũng có thể đoán ngay được phần kết của “truyện ngắn kéo dài” “Vợ chồng A Phủ”. Bản làng trở thành khu du kích, cuộc sống vừa sản xuất vừa chiến đấu thật là vui vẻ, tươi sáng và tất nhiên A Phủ trở thành một chiến sĩ du kích xuất sắc.
“ Truyện Tây Bắc” – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp văn học cách mạng của Tô Hoài, tác phẩm đánh dấu mốc mở ra  thời kỳ văn học hiện thực XHCN Việt Nam là như vậy. Văn chương dễ dãi, chẳng “đẽo gọt” như Như Phong nhận xét, nội dung sơ lược, mang nặng mục đích tuyên truyền chính sách dân tộc miền núi của Đảng, bỏ qua tính chân thực vốn là cốt lõi của văn chương, viết theo lối viết “địch - ta” rạch ròi, vạch một ranh giới tuyệt đối giữa các nhân vật và chỉ chấp nhận họ hoặc ở phe này hoặc phe kia. Rút cuộc, “đỉnh cao sự nghiệp Tô Hoài “ vốn ra đời theo yêu cầu nhất thời của cách mạng đã bị thời gian đào thải, ngày nay, ngoại trừ những học sinh và sinh viên  phải làm bài, khó có ai đủ kiên nhẫn để thưởng thức nó.

Trong thời cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, hội chứng “phản tỉnh” không chỉ nảy nòi ở các nhà văn trẻ , một số cây đa cây đề cũng bị nhiễm “con virus” này, viết bài “tự chỉ trích” hoặc “phân bua” với thiên hạ mình cũng suy nghĩ độc lập lắm đây. Chế Lan Viên có bài “ Bánh vẽ”, Nguyễn Minh Châu có “ Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ”…mới đây Đào Xuân Quý có “ Nhớ lại”. Tuy không nặng mùi “ phản tỉnh”, nhưng Tô Hoài cũng viết một cuốn hồi ký dầy cộp – “ Cát bụi chân ai”, nói rõ một số chuyện xoay quanh vụ Nhân văn Giai phẩm, “dựng lại chân dung” một số nhà văn “cây đa cây đề” làm xôn xao dư luận một thời.
Trước khi đưa ra một số tình tiết “phản kháng” của văn nghệ sĩ trong vụ án văn này, Tô Hoài “thủ” trước một lập trường chính trị vững vàng theo Đảng :
” Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy….không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở”. “
Vậy đã rõ ràng, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Tô Hoài trước sau vẫn vững “lập trường cách mạng”, không có “phản tỉnh”, “phản mê” gì hết. Tuy nhiên ông cũng đưa ra một vài hồi ức cho thấy không phải nhà văn nào cũng “vững vàng” như ông.
Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng ba năm 1958  có đăng bài “ Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và công tác “, Tô Hoài sát phạt anh em :”càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.”  tự kiểm thảo :”Tôi đã đánh giá thấp những hoạt động của tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.”
Tô Hoài nhớ lại , ngay sau khi đọc bài báo :
         “Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi:
- Tiên sư mày, làm thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì không!
Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít.
- Tao về Nhã Nam.
- Về Nhã Nam?
- ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.”
   Phải chăng mượn lời Nguyên Hông , 42 năm sau, Tô Hoài đã “chữa khéo” hành động của mình trong vụ Nhân Văn hồi đó là “ Câu Tiễn” ?
Trong những năm tháng “ khó khăn “ đó, Tô Hoài kể lại “ hai hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra Đảng”; Dương Bích Liên đã vẽ “một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc”  có tên là “Hào”  bị loại khi mang ra triển lãm; Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến ; Nguyễn Huy Tưởng thì “mấy đêm  không chợp mắt được. … Nguyễn Huy Tưởng nói:”Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.”…Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các báo.Tôi đùa:” Ông là thằng cộng sản dân tộc”.Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.:” Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải,  Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.”.Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm nên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn. Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.”, Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm, Phùng Quán  bị tước hội tịch trong 5 năm nhưng “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông “Nhân Văn cả nước”, mà tràn lan đến những “Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm”, chẳng bị kỷ luật gì, nhiễu người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn.”, khi nhà học giả Phan Khôi mất “ đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu”. Nhớ lại Phùng Cung, tác giả “Con ngựa già của chúa Trịnh”, 11 năm tù biệt giam, Tô Hoài ngậm ngùi : “ Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan..Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù. “ Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.”.Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt.Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.”
Cũng trong cái thời nhà văn bị theo dõi tới từng câu từng chữ ấy, Tô Hoài nhớ lại :
      “Có một thời, những người “theo dõi” báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính gác. Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao. Không biết vì tổ chức đặt ra công tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được làm thầy thằng bị (được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường chưa bao giờ giảng cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý nghĩa, trước hết bài văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát:
- Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi!
Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có gì khác.
- Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi.
Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:
- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ,  tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình…”

Những trang viết thực như vậy quả là những tư liệu đáng quý trong lịch sử văn học Việt Nam, tuy nhiên, cuốn “ Cát bụi chân ai” của Tô Hoài lại gây xôn xao bạn đọc ở phần “bật mí” những khía cánh riêng tư của các ngôi sao văn học.  Chẳng hạn tuy Nguyễn Tuân được tiếng là “tài tử” nhưng lại rất kỹ tính “ Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi, nhưng vẫn lại là về rừng, lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc màn, không quên chiếc bi đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám các thứ lỉnh kỉnh, một xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy thẻ hương mua thửa ở hàng quen cửa chợ Đồng Xuân để…chống muỗi”.
Nhiều năm nay, thiên hạ đồn thổi về cái sự “tình trai” của Xuân Diệu, trong “Cátbụi chân ai”, Tô Hoài đã huỵch toẹt ra chuyện đó :
“Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối…Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ… Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. …
Thực là một trang đặc tả mà ngay đến các cây bút “hậu hiện đại” cũng chưa viết nổi.  Còn chàng Hoàng Cát , một “tình trai “ của Xuân Diệu, khi lên đường  vào B được Xuân Diệu tặng thơ  với lời yêu đương thống thiết :

“ Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
Chưa chi ta đã phải chia xa!
Nhưng bóng em đi đã khuất rồi
Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!
Tình ta như mối dây muôn dặm
Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời…”

Aáy thế mà khi Cát trở về Hà Nội viết “ Cây táo ông Lành” đăng báo Văn Nghệ bị đòn hội chợ, Xuân Diệu đã quay ngoắt :’ Tôi không biết thằng đó là ai ?”
Nhưng thê thảm nhất là kỷ niệm về Nguyễn Bính. Nguyên thời làm báo Trăm Hoa, nhà thơ được một cô gái trẻ đem lòng yêu, và sinh ra một bé gáiï tên là Hiền. Khi cháu mới bập bẹ, cô gái trả con lại cho Nguyễn Bính để đi bước nữa. Thế rồi một đêm mưa, Nguyễn Bính bế con ra dốc hàng Kèn và trao cho một người đàn ông qua đường nào đó. Oân lại chuyện cũ . Tô Hoài xót xa : “Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu oan nghiệt tối hôm ấy - nếu trời để cho được  sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền nhé…” Vâng tên cháu là Hiền, nhưng lẽ ra cần nói rõ, cháu là con gái của nhà thơ dân tộc : Nguyễn Bính.
“ Cát bụi chân ai” dù thế nào, vẫn còn chút lòng nhân hậu và sự trung thực trí thức của Tô Hoài. Chỉ tiếc nó được viết sau khi ông nhà văn đã rời bỏ cái ghế Chủ tịch Hội văn Nghệ Hà Nội, nơi ông đã ăn dầm nằm dề cả gần hai mươi năm nay. Giá như  ông chịu treo ấn từ quan sớm, chắc sự nghiệp của ông không chỉ  còn lại với thời gian  một “chú dế mèn”
21-4-04
                 (còn nữa, mai xin tiếp)