Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2014

Chương 4 ĐÈN CÙ- (Trần Đĩnh )

DÒNG SÔNG NHIỄM MẶN
( Đầu đề do tôi mạo muội đặt )
 Sau chiến dịch Tây Bắc, giải phóng Nghĩa Lộ, một phần
tỉnh Sơn La, thôi bao vây Nà Sản. Tôi và Tô Hoài đã dự
cuộc họp Võ Nguyên Giáp kết thúc chiến dịch: không đủ sức
công kiên vào tập đoàn cứ điểm đầu tiên mà Pháp gọi là “con
dím” này. Tôi thôi tùy quân ký giả, ngồi nhà phụ trách tổ cải
cách ruộng đất của báo.
Tôi náo nức, xúc động. Cả nước đang tích cực chuẩn bị
cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất giải phóng anh em
giai cấp. Cụ Hồ có bài báo tiếng Pháp đăng đầy hai trang tờ
“Vì một nền hoà bình lâu dài, vì một nền dân chủ mới,” cơ
quan ngôn luận của Kominform, sau khi Stalin và Mao lên cho
cụ một bài gân lập trường vô sản. Lúc ấy chưa đọc hồi ký
Khroutchev, tôi chưa biết: gặp Hồ Chí Minh, Stalin đã chỉ hai
cái ghế nói: ghế này của nông dân, ghế này của địa chủ, anh
ngồi vào ghế nào? Câu hỏi không giấu vẻ miệt thị và thế là ra
đời bài báo Cụ Hồ tự phê bình đã chậm tiến hành cải cách
ruộng đất. Tôi (Cụ nói) không nhớ rằng ở Việt Nam, tổ quốc
còn gọi là đất nước - đất và nước cho nông dân. Bài báo có
nghĩa cụ đã thế chấp bản lĩnh riêng để đổi lấy phe. Cụ rất
hiểu: muốn làm cách mạng thì phaỉ được phe cho nắm quyền!
Như trước kia được Quốc tế cho phép lập đảng. Và dòng sông
vào biển từ nay hoá mặn.
Chuẩn bị cải cách ruộng đất, từ giữa tháng 7 đến cuối
tháng 9 - 1953, Trung ương mở một lớp chỉnh huấn cho trí
thức trong và ngoài đảng làm việc ở chính phủ và các đòan
thể trung ương. Nhiều tên tuổi như Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn
Mạnh Tường, Nguyễn Văn Huyên, Thế Lữ… đã dự học. Mục
đích sâu xa là xây dựng lập trường giai cấp, đề cao công nhân,
bần cố nông, hạ uy thế chính trị và tư tưởng của trí thức và
các giai tầng không lao động chân tay khác. Sau đó, bắt đầu
triệt để chỉnh đốn tổ chức, theo phương châm mạnh mẽ đề
bạt công nông, gạt bỏ các thành phần “không trong sạch.”
Nhưng nói chung không mấy ai nhìn trước thấy triển vọng tối
tăm, mà nếu có nhìn ra thì cũng thấy đó là điều hợp lý…
Mấy tòa nhà lán tre nứa cao rộng vây quanh hai mặt một
hội trường lớn. Riêng ở một tòa ở xế trước hội trường là ba
hay bốn chi bộ (gồm cả đảng viên lẫn không đảng phái). Chi
bộ đầu lán có Nguyễn Cao Luyện, Tạ Mỹ Duật. Liền với nó,
trên cùng một sạp giường nứa dài cả hai ba chục mét, một chi
bộ nữa và đặc biệt lại có Nguyễn Tư Nghiêm và tôi. Ở sạp đối
diện, cách một lối đi là hai chi bộ nữa. Một có Đặng Đình
Hưng và một có Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng cục 2 sau
này.
Tố Hữu là bí thư học ủy. Cụ Hồ cách nhật, có khi liền ngày,
đến xem điện ảnh, liên hoan với học viên. Cụ có mấy câu nổi
tiếng trong hội trường: “Bác Hồ muốn nằm” khi mọi người hô
“Hồ Chủ tịch muôn năm.” Rồi tay chỉ vào đầu: “Từ đây thì Bác
già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì Bác trẻ.” Một hôm
Bác nói: “Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém tri
thức, ít lý luận. Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi
khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch Đông...”
Lê Duẩn thường có mặt. Giảng bài chính: Lập trường giai
cấp nông dân và cách mạng dân tộc, dân chủ. Duẩn nhấn
mạnh trong bước cách mạng này, người cộng sản phải có lập
trường giai cấp nông dân để hiểu được nguyện vọng nông
dân mà kiên quyết lãnh đạo họ cải cách ruộng đất, lấy lại
quyền lợi, làm một cuộc đổi đời.
Tôi ngợ: theo Mác, Lê-nin thì người cộng sản không thể có
lập trường nào khác ngoài lập trường giai cấp công nhân. Có
điều ý kiến của Lê Duẩn chỉ nói ở trong cái lớp mấy trăm con
người này. Vả chăng không ai dám phê phán hay chất vấn sất.
Phải nhận Duẩn nhiều ý độc đáo. Như ta mất nước cho
Pháp là vì lúc đó đang là thời đại chủ nghĩa tư bản nó chiến
thắng áp đảo phong kiến. Đổ hết tội cho nhà Nguyễn là không
thấy xung đột của hai phương thức sản xuất, một đi lên, một
tàn lụi.
Duẩn mới ở trong Nam ra với biệt hiệu đơ - xăng bu - gi,
hai trăm nến (tiếng Pháp deux cents bougies - BT) chỉ sau có
Cụ Hồ xanh - xăng bu - gi, năm trăm nến.
Chúng tôi hay xúm quanh Lê Duẩn để hỏi. Phải nhận ông
có những cách giải thích độc đáo mà nay nghĩ lại thì thấy
thường là ngụy biện. Chẳng hạn trả lời tại sao chỉ có Đảng
cộng sản Trung Quốc và Việt Nam chỉnh huấn còn các đảng
Âu Mỹ thì không, Duẩn nói, vì ta và Trung Quốc ít công nhân
cho nên phải bỏ công ra tỉa gọt từng đảng viên cho đa số có
được lập trường giai cấp vô sản.
Một tối kẻng thình lình gọi toàn thể lên hội trường. Tề tựu
lâu rồi mà trên sân khấu vẫn vắng tanh. Mọi người bắt đầu
nhớn nhác thắc mắc. Thì Tố Hữu ủ rũ đi vào. Theo sau là cụ
Hồ và nhiều người khác. Ông Cụ ngồi xuống ở trên cùng hàng
đầu. Tôi bỏ chỗ leo lên ngồi ngay đằng sau lưng Cụ. Tố Hữu
bước lên sân khấu, cằm đè lên hai tay bưng một vật gì ấp vào
ngực, vẻ như cố giấu cái việc anh đang quay lưng lại lúi húi
làm trên đó. Rồi cúi đầu đứng lặng một lúc khá lâu nữa. Khi
mọi người bên dưới to tiếng hỏi nhau, Tố Hữu mới từ từ quay
lại, nước mắt chan hòa trên mặt từ lúc nào. Trên phông mầu
đỏ hiện lên chân dung đại nguyên soái Stalin. Bộ quân phục
trắng lốp làm nổi bật hơn lên dải băng đen viền quanh rồi
thắt nơ túm lại ở bên dưới.
Tôi thấy bàng hoàng hơn là đau buồn. Đúng hơn nữa, tôi
vẫn bị khó chịu vì cái kiểu “đánh đố loài người” của Tố Hữu.
Ông ấy hình như tranh hơn thiên hạ cả ở chỗ được biết sớm
hơn hung tin, do đó được ưu tiên đau xót trước và nhân thể
lại tranh thủ dịp thị phạm cho lớp trí thức ngồi đây thái độ
cách mạng đối với cái chết của lãnh tụ…
Trước mặt tôi, Cụ Hồ nức nở. Không ngừng đưa khăn tay
mầu trắng lên lau nước mắt và nuớc mắt thì cứ chảy trên hai
má Cụ đỏ bóng vì khóc, vì xúc động. Xong truy điệu, Cụ lập
cập đứng lên về gian phòng dành riêng cho Cụ ở đằng sau hội
trường, trong dẫy văn phòng học ủy nhìn xuống nhà ăn tập
thể. Quên hộp thuốc lá Trung Hoa Bài hình tròn ở trên ghế
bên cạnh. Tôi cầm lấy nó đi men hiên đất cao hẹp rẽ vào
phòng Cụ.” Dạ, thưa Bác, Bác để quên ạ!”
Cụ ngửng lên nhìn và tôi bỗng thấy mình lạc lõng quá, vô
duyên quá, tọc mạch quá. Mặt Cụ xưng lên, đầm đìa nước
mắt, hai mắt húp lại, những nét tôi chợt thấy chỉ cốt để cho
mình Cụ được biết, một cái gì hết sức bí mật, riêng tư. Cụ ngơ
ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào làm
gì, cái hộp kia là gì và của ai... Tôi vội quay rất nhanh ra ngoài.
Hội trường tắt đèn. Chân dung Stalin chìm trong bóng tối.
Tôi bật nấc lên.
Lúc này nỗi thương đau của Bác Hồ có lẽ mới thấm vào tôi.
Ít lâu sau bài thơ khóc Stalin đăng lên báo, tôi nhận thấy
mình đã thành kiến với Tố Hữu. Nhà thơ đã đau đớn thật.”
Thương cha, thương mẹ, thương chồng, Thương mình có một
còn thương ông thương mười.” (Thơ Tố Hữu)
* * *
Một tối họp chi bộ nghe và nhận xét các bản tự kiểm thảo
của nhau. Sau mỗi bài học cơ bản lại có một cuộc tự kiểm
thảo và cuối lớp sẽ có bản tổng kết tư tưởng, gọi ra tên hệ tư
tưởng của mỗi người. Tố Hữu xuống dự chi bộ chúng tôi tối
đó. Tôi có phần đao to búa lớn phê phán người vừa trình bày
xong bản kiểm thảo. Tố Hữu bỗng giơ tay ngăn tôi lại. Rồi từ
tốn, nhỏ nhẹ nói “Đồng chí vừa phê phán ai, đồng chí biết
không? Phê phán đồng chí của đồng chí đấy, đồng chí phải
biết điều ấy! Đồng chí của đồng chí là gì? Là hòn ngọc..., tôi
nói lại, là hòn ngọc, hòn vàng của đảng, là người mà chúng ta
phải yêu mến nâng niu...”
Tôi phát hiện một chân lý cảm động. Tôi là hòn ngọc hòn
vàng của đảng! Nhưng cùng lúc tôi ự ái vì bị “uốn nắn thái
độ.” cùng lúc nhận thấy trong con mắt Tố Hữu nhìn người
vừa bị chỉnh đốn kia một ánh trắng xỉn, lạnh lẽo, một cái gì
khinh khỉnh.
Định nghĩa đảng viên là ngọc là vàng của đảng cho nên vào
tổng kiểm thảo Tố Hữu yêu cầu học viên rất ngặt. Hễ là con
em hay liên quan với địa chủ, học viên đều phải thành khẩn
tự khai báo với đảng mọi sai lầm tội lỗi của bản thân, chẳng
hạn đồng tình, về hùa với gia đình, thậm chí cùng với gia đình
trực tiếp đàn áp, bóc lột nông dân... Thứ hai, phải vạch ra mọi
thủ đoạn đàn áp, bóc lột nông dân cùng tộí ác của bố mẹ, gia
đình, họ hàng địa chủ, cường hào gian ác. Thứ ba trên cơ sở
thành khẩn khai báo kia mà tuyên bố là căm thù bố mẹ, tỏ ra
đã dứt khoát lập trường vô sản, đoạn tuyệt với kẻ thù giai
cấp. Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ
thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản,” học viên đó phải ngồi học
lại cho tới khi nào lập trường vô sản, lập trường nông dân
thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt
với bố mẹ mình.
Tố Hữu làm đúng lời Bác Hồ thôi. Sắp vào tổng kết tư
tưởng, Bác Hồ đến nói chuyện - thực chất “động viên” học
viên dứt khoát với tư tưởng sai và lầm lạc, tội lỗi của cá nhân.
Như thấy làm việc cho thực dân Pháp là nhục nhưng vẫn
chưa triệt để, phải tiến lên một bước nữa là thấy tội của
mình… Bữa ấy Bác lôi cả nhục và tội của cụ Bùi Bằng Đoàn ra.
Tôi nhớ chi tiết này vì tôi đã ái ngại cho cụ thượng thư cũ.
Nhất là khi Bác Hồ nói “Xin lỗi cụ Bùi” thì cụ Bùi rất ôn tồn
đáp lại: “Không dám, xin cụ cứ nói.” Tôi có phần thiện cảm
với chữ “Không dám” mà từ khi lên ATK trên rừng bây giờ
mới lại nghe đến. Cũng thương cụ Bùi chỉ được gọi là Cụ!
Lúc ấy tôi chưa biết Mao bày mẹo chỉnh huấn bắt khai tội
cốt để hạ nhục bề dưới để dễ thu phục sai khiến - tao bắt mày
khai cái thối tha nhất của mày ra mà mày nghe tao là mày
hàng tao, tao nắm được ruột gan mày thì mày còn hòng thóat
đi đâu.
Ở chi bộ chúng tôi, Nguyễn Tư Nghiêm là học viên duy
nhất rơi vào cảnh gay go phải làm hai bước nhận nhục và có
tội. Mẹ anh năm ấy đã già, có hơn hai mẫu ruộng cho cấy tô,
một mình nuôi người em của Nghiêm bị điên. Nguyễn Tư
Nghiêm nhất định không khai “tội ác” của mẹ. Chi bộ thuyết
phục, răn đe, anh vẫn khăng khăng nói không thể căm thù mẹ,
không thể coi mẹ là kẻ thù giai cấp, là có tội ác, không thể
đoạn tuyệt mẹ mà trái lại anh biết ơn mẹ đã nuôi nấng anh
thành người, cho anh được học mỹ thuật.
Tóm lại, đảng coi anh là ngọc là vàng để anh nghe đảng
nhưng anh lại coi mẹ anh, kẻ thù giai cấp, hơn cả ngọc cả
vàng. Và Nghiêm đã đơn thương độc mã nhỏ nhẹ, ấp úng
chặn đứng một mầm văn hóa ác bắt đầu ló mòi mà người ta
toan vun trồng nhân giống trên đất nước.
Cuối lớp học, xong phần tổng kết tư tưởng từng người, học
ủy chọn đưa ra toàn thể hội trường ba báo cáo điển hình.
Một của Thế Lữ. Anh đã phạm sai lầm tham gia Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Tự Lực Văn Đoàn, lại làm thơ kêu gọi nhân
dân ta, nhất là thanh niên, đi vào con đường thoát ly chính trị,
lờ đi tiếng kêu cứu của đất nước nô lệ tủi nhục. Rồi đời sống
sa đọa, đĩ điếm, thuốc phiện...
Một của Tô Ngọc Vân. Anh là tiêu biểu rõ nét nhất của tư
tưởng văn nghệ thoát ly chính trị mà tiêu biểu nhất là cuộc
tranh luận kéo dài của anh với Trường Chinh năm 1948 ở
trên báo Sự Thật về “nghệ thuật là tuyên truyền hay không là
tuyên truyền?” Anh thẳng cánh bác bỏ nghệ thuật phải tuyên
truyền.
Và một của Th. Lên tự nhận mắc chứng hủ hoá trai gái gần
như bệnh lý mà có lẽ do, anh công khai thú nhận, “cái của tôi
nó to quá!” Truy nguồn gốc tư tưởng đến thế, nhân tiện phô
diễn tính dục bằng lời - verbal exhibitionism thay cho hàng
thật. Một dạo dài, tôi sinh hoạt chi bộ ghép với vợ chồng Th.
Đầu những năm 90, giỗ 49 ngày Trịnh Kính thổi clarinet ở
cạnh nhà tôi, Song Kim, dì họ của anh đến. Chị buồn rầu nói:
- Báo cáo điển hình của anh Thế Lữ ở cái lớp ấy tôi vẫn
còn giữ... Xấu hổ anh ạ...
- Chính bọn chúng tôi mới xấu hổ, - tôi khẽ nói. Đã xúm lại
nghe... Nhưng có lẽ xấu hổ hơn cả là người đã đặt ra cái trò
cho nhòm hội đồng vào đời tư người khác qua lỗ khoá.
Tôi đã giữ lại không nói tiếp: Chẳng lẽ hễ nhân danh cách
mạng là có quyền đánh trống ghi tên cho đến nhòm lỗ khoá
vào đời người khác hay sao chị ơi.
Thời đánh Nhân Văn, Song Kim đã từng phải che chắn cho
Thế Lữ. Người ta đòi anh viết kiểm thảo cái tội không nhận rõ
sai lầm của bọn phản động Nhân Văn. Nguyễn Khải được
phân công đến động viên Thế Lữ viết. Chả biết thật hay giả,
Thế Lữ liền nhờ Khải viết hộ bản tự kiểm điểm lệch lạc của
mình. Kể lại cho tôi chuyện này, Khải còn đỏ mặt ngượng.
La m nhu c va sơ la ye u ca u sa u k n cu a “tự kiểm thảo.”
Nhiều người đã tự sát. Bảo là vì nhục cả thì không chắc. Có
thể là một cách phản kháng chăng? Người đầu tiên tự sát
trong chỉnh huấn là Thân Mỡ, nguời đảng viên do Kỳ Vân kết
nạp đầu tiên ở Đình Bảng, lúc học ở trường Mác - Lê Bắc Kinh
rồi treo cổ chết khi tổng kết tư tưởng
Ở lớp chỉnh huấn Lưu Động, Chính Yên báo Cứu Quốc dự,
có Thướng, biên tập viên cùng báo với hai anh. Thướng treo
cổ bên ngòi Thia, sông Đáy. Hai anh đã phải lặn lội tìm xác kẻ
“phản bội,” lời của bí thư học ủy Nguyễn Chương. Học viên
phải họp mít tinh ở hội trường rầm rầm hô đả đảo tội ác của
tên Thướng mưu phá hoại chỉnh huấn, một phương thức
quan trọng của xây dựng đảng. Chính Yên bảo tôi là trước đó
Thướng ngồi trong hội trường một mình rất lâu. Bước ra thấy
Chính Yên, Thướng quay đầu lại sau chửi: - Mẹ chúng nó cao
cao tại thượng. Trên cao chỉ có ảnh Mác, Ăng - ghen, Lê-nin,
Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Chính Yên nói anh
không nghĩ Thướng chửi mấy cụ đó.
Động cơ nào khíến một số anh em tự thủ tiêu. Nhục rồi tự
xoá bỏ? Hay mượn diệt bản thân mà hy vọng diệt chính cái kẻ
đã đưa mình tới nông nỗi tuyệt vọng này?
Tự sát biết đâu chẳng phải là muốn lẩn trốn một cách sống
kinh hoàng? Đời thuở nào ngồi trước chi bộ lại lôi việc bố đi
nhà thổ, mẹ ngủ với đày tớ ra trình báo?
À, lại còn tế nhị cho phép là nếu việc xấu xa quá thì sẽ
được báo cáo riêng với học ủy. Tại lớp học tôi theo có người
đau đớn khai ra việc mình ngủ cả với mẹ vợ và em gái vợ, có
khi một đêm riêng rẽ với cả ba người. Khai rõ đủ thủ đoạn dụ
dỗ, lừa bịp và cách tiến hành “tội ác” để lôi được tận gốc rễ
của tư tưởng địa chủ nó ích kỷ, đểu giả, tàn bạo đến thế nào.
Chăm chú ghi từng câu hỏi của tập thể để trình bày cụ thể
động cơ, địa điểm, thủ đoạn phạm tội. Có đồng chí khai mắc
sai lầm thủ dâm. Năm chục tuổi mà còn mắc cái đó thì tư
tưởng chiếm hữu và hưởng thụ của địa chủ ở đồng chí lớn
quá thật. Nào đồng chí nói cho biết khi phạm tội đó đồng chí
nghĩ chiếm hữu ai? - “Báo cáo (người trong chi bộ tôi và
Nghiêm vừa tự thú bỗng nghẹn ngào) … báo cáo, tôi… Báo
cáo…, cả chi bộ lắng nghe. Báo cáo tôi nghĩ đến cô con gái nhà
chủ ở địa phương. “Thành phần gia đình?” “Có lẽ phú nông...”
“Đấy, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, tư tưởng bóc lột gặp nhau
đấy.”
Cứ thế nghiêm chỉnh xây dựng tư tưởng vô sản cho nhau.
Đấu tranh tư tưởng là phải truy lùng triệt để như thế!
Nhưng có những người khóc vờ cho qua cầu. Thí dụ
Dương Bích Liên. Anh bảo tớ có cách. Tớ nghĩ đến thuở bé tớ
lấy lửa đốt các tổ kiến cho cháy xèo xèo thế rồi tớ chảy nước
mắt thật. Sau này đi cải cách Liên luôn thủ một hộp sữa bên
mình, đêm mút trộm. Tự bào chữa: cái này mình có mời thì
nông dân cũng lắc.
Xin trở lại chuyện Nguyễn Tư Nghiêm.
Thương anh, kẻ bị Tố Hữu “uốn nắn thái độ” không yêu
thương đồng chí là tôi đã xui bậy anh khai bừa đi là căm thù
cho xong chuyện. Bảo anh là nói vâng, tôi căm thù trống
không như kiểu Galilée nhận quả đất đứng nhưng miệng lẩm
bẩm cho một mình mình nghe là nó vẫn quay ấy!
Nhưng Nghiêm cứ đau khổ lí nhí bảo tôi: - Không..., không
căm thù mẹ được.
Nghiêm cũng không căm thù được cả các địa chủ khác.
Một xẩm tối, chờ lên hội trường nghe giải đáp, Nghiêm
bảo tôi: - Tớ biết thế nhưng tớ không theo nổi. Tớ đọc Marx -
Engels thấy nói Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt
triệt để nhất với chế độ tư hữu; như thế tất nhiên nó phải
đoạn tuyệt triệt để nhất với các tư tưởng truyền thống “Table
rase” cơ mà, xóa sạch… Tớ biết thế nhưng tớ không theo thế
được…
Lúc ấy cố nhiên Nghiêm chưa nghe Cụ Hồ nói đại ý giữa
nhà to là nước với nhà nhỏ là gia đình riêng thì cái to là nặng,
cái nhỏ là nhẹ, vậy nên người cách mạng chọn gia đình to.
Nhưng có nghe thì Nghiêm cũng không theo. Marx còn chả
làm gì nổi được Nghiêm mà.
… Lần tham gia cải cảch ruộng đất ở Đức Lân, gần kè Úc
Sơn, Thái Nguyên, sau một cuộc phát động quần chúng đấu tố
địa chủ, Nghiêm mất tích. Tiêu tan đi như một cái bóng. Đội
đã nghĩ tới phản động thủ tiêu. Ai hay quá kinh hãi về sự độc
ác của con người với con người, anh bỏ trốn đội. Lủi ra ẩn ở
giữa đồng lúa đang cữ trổ đòng. Bạch Mao nữ trốn địa chủ
còn có rừng sâu, Nghiêm trốn đội cải cách chỉ còn có cánh
đồng và những đòng lúa non cho anh bứt nhá thay cơm nhiều
ngày. Phát hiện ra anh, người ta chỉ có thể kết luận là anh
điên.
Và Nghiêm đã vào nhà thương điên Bạch Mai. Chung
phòng với một anh lính điên. Kim Lân lúc đó là chi ủy viên
phải đến thăm Nghiêm (“chả hiểu sao lại cho mình chui vào
cơ quan lãnh đạo như vậy chứ?,” - Kim Lân lè lưỡi bảo tôi)
Cậu lính khen Nghiêm tốt lắm nhưng hễ lên cơn anh ta lại cứ
nhè đầu Nghiêm mà nện. Tài, - Kim Lân nói, đau thế, ngày hai
ba trận đòn điên thế mà nhất định không chịu ra nhá. Sau
nhiều lần vào, tớ cứ dỗ cu cậu. Nào về với anh em đi,
Nghiêm... Về..., về vẽ với anh em cho vui nhỉ...
Về một thời gian được đặt hàng minh họa Truyện Kiều.
Trường Chinh cho xổ toẹt. Phê rằng truyện Kiều là của Trung
Quốc mà lại vẽ ăn mặc kiểu Việt Nam? Thật ra ông ấy không
xài được những nét vẻ run rẩy mà mọi người kinh hãi lên vì
đẹp và gọi là phong cách “thời kỳ điên.”
Sau đó, Trường Chinh muốn an ủi Nghiêm, ba lần mời
Nghiêm đến gặp. Nghiêm từ chối. Rúc vào đồng im lặng. Nay
những bức vẽ Kiều được săn lùng ngang đồ sứ Minh - Thanh...
Bây giờ, thế kỷ 21,Nghiêm vẫn hoàn toàn rúc vào tranh và
im lặng. Tây Tàu đến tìm gặp người đàn bà sống chung với
anh nói anh đi vẽ xa. Bao giờ về? Không biết... Mà có khi chết
giữa đường, ông ấy dặn trước như thế.
Khoảng 2009, 2010, một tối ở nhà Trần Lưu Hậu tôi gọi
cho Nghiêm. Vợ anh, người đàn bà hay từ chối khách nói ông
ấy ốm. Tôi nói xin bà nói giúp với ông ấy tôi là thế này. Ba
phút sau Nghiêm ra.
“Ốm thật... Ừ, đến chơi nhé... Nhớ đến nha. Có tránh nhưng
tránh ai thôi... Vẫn thoáng cái giọng Nghệ từ tốn, thấp trầm.
Tôi hài lòng. Có thế chứ. Rủ tôi bỏ cộng sản từ rất sớm cơ mà.
Tết Quý Dậu, 1957. Giữa thoái trào dữ dội của phong trào
cộng sản trên toàn thế giới...81

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét